Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này

 

D Đ


Hữu Loan, đèo Cả

 
 


Với Hữu Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, trầm luân, đánh giá từ đâu, kiểu ǵ đi nữa th́ chúng ta đều phải công nhận hai nét son : tài hoa và tiết tháo.




Bắt đầu là bài Đèo Cả , làm năm 1946 :

 
Đèo cả ! Đèo Cả
Núi cao ngút
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Bên quán « Hồng Quân » người ngựa mỏi
Nh́n dốc ngồi than,
Thương ai lên đường !
Chầy ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới đây bên suối độc
Cheo leo cḥi biên cương
(…) Rau khe, cơm vắt
Áo phai màu sa trường
Ngày thâu vượn hú
Đêm canh gặp hùm lang thang


Trên báo Văn Nghệ, Việt Bắc, số 7, tháng 12-1948, trong mục Tiếng Thơ, Xuân Diệu đă giới thiệu trích đoạn này trong bài viết tại Vĩnh Yên, ngày 23.11.1948 :

« Tôi yêu, tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời mới đă gọi cái đèo chênh vênh ấy, đứng trong đất nước ta, đứng giữa Phú Yên với Khánh Ḥa, mà lại hóa thành heo hút quá. V́ bên này là ta, bên kia là giặc. Nhất là khi chiến tranh chưa lan toàn quốc, từ Bắc Bộ, đi suốt vào Đèo Cả, lên Đèo Cả thấy bên kia giặc rắc tai ương. Đèo Cả biên thùy, đứng trên đầu bể thẳm đụng tới mây cao, Đèo Cả treo giữa biên thùy, mà cái đẹp trầm hùng ngang với ḷng chiến sĩ » (tr.35).

Xuân Diệu viết hào hứng, v́ rung cảm trước bài thơ, chứng tỏ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ông không đề xuất tên tác giả, có lẽ v́ bài thơ không kư tên, được đăng trên báo Chiến Sĩ, của Quân khu IV, in tại Vinh, số 8, năm1947 ; lư do không kư tên có lẽ v́ chính tác giả Hữu Loan làm chủ biên tờ báo. Lại là một nét đặc biệt.

Bài Đèo Cả, có lẽ làm trong chiến dịch Nam tiến ; không khí nhắc đến bài thơ đồng thời, là Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, làm xong ngày 9.11.1946 tại Tuy Ḥa, hay bài Ngoại Ô Mùa Đông 46 của Văn Cao, cùng đăng trên báo Văn Nghệ, năm đầu tiên, 1948.

Cùng một mạch thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài T́nh thủ đô do bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đă duyệt lại :
 
Trên những chuyến xe ḅ
đi về đường Trèm, Vẽ
Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe ḅ
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
(…) Những người bắt sống Le Page
và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dăy núi
Kẹp ṿng quanh ngoại vi Thủ đô.

(trích theo Dương Tường, phụ lục « Chỉ tại con Chích Cḥe », nxb Hội nhà Văn, Hà Nội, 2009)


Bài này phảng phất ít nhiều hơi hướm, t́nh cảm lăng mạn, như trong Màu Tím Hoa Sim, viết về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan : người vợ trẻ mới cưới, tên Lê Đỗ Thị Ninh, chết v́ tai nạn – té xuống sông – ngày 25 tháng 5 âm lịch 1948 , theo lời kể Hữu Loan.
 

Nàng có ba người anh đi bộ đội…
(…) Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đ́nh
Yêu nàng như t́nh yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đ̣i may áo mới
(…) Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
mấy người đi trở lại
(…) Nhưng không chết người trai khói lửa
mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng

(…)

Sự việc, tự nó đă buồn. Nó c̣n bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ chết v́ bom đạn, và qua lời thơ bi thiết :
 
Những chiều hành quân
qua những đồi sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nh́n áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa…


Cái chết ở đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra ; nhưng nó đă xảy ra trong thời chiến tranh ; và tác giả đă khéo lồng vào khung cảnh khói lửa :

Do đó bài thơ có giá trị truyền cảm và biểu tượng mạnh mẽ, trên một đất nước tan nát v́ một chiến cuộc kéo dài ; giới văn học ngày nay gọi là « liên văn bản ». Điều này không loại trừ chất nghệ thuật của tác phẩm và tài năng của Hữu Loan, nhưng thời đại cũng đă góp phần hậu thuẫn cho tác phẩm.

Chưa kể là bài thơ khi ra đời, đă bị ngăn chặn, v́ tính cách bi quan, « phản chiến » của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Tác phẩm miêu tả sự thật, mà bị cấm đoán th́ càng được truyền tụng, nhất là về phía « bên kia ». Câu chuyện dài ḍng – thậm chí ngoài đề – tôi sẽ trở lại trong một bài khác.

Trong nguồn thơ kháng chiến, tháng 12 - 1956, ông có bài thơ mừng xuân « Ôm Tết vào ḷng », phấn khởi sau chiến thắng và ḥa b́nh, nhưng vẫn c̣n bầm tím vết tích của chiến tranh :
 
Tết và mùa xuân
Như mắt người ứa lệ
Những người đầu tang c̣n
Rối tóc rối khăn
Ôm Tết vào ḷng
Băng bó lại mùa xuân
Cùng nói lên
nói lớn
một lần
Không được giẫm lên mùa xuân
Không được giẫm lên Tết nữa
Không được
giẫm chân lên
ḷng người.

(Giai Phẩm, Xuân 1957, nxb Văn Nghệ, Hà Nộị)


« không được giẫm lên ḷng người » là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với tự do, thường xuyên phản kháng. Ông can dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm, và trên Giai phẩm mù Thu, tập 2, ông có bài « Cũng những thằng nịnh hót », làm tháng 9-1956 :
 

Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng ḥa
Những thằng nịnh c̣n thênh thang đất sống
(…) Chúng nó ngụy trang
Bằng tổ chức
bằng quan điểm nhân dân
bằng lập trường chính sách
Chúng nó c̣n thằng nào
Là chế độ chúng ta chưa sạch
Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết
mọi thằng.
Những người đă đánh bại xâm lăng
Đỏ bừng mặt v́ những tên quốc sỉ
Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta
không ai biết
cúi đầu.


Trên Giai phẩm mùa Đông, tập 1, tháng 12.1956, ông c̣n có truyện ngắn « Lộn ṣng » mô tả những tiêu cực trong đời sống khó khăn của giáo giới Thanh Hóa.

Thời điểm này, ông phải đi tham gia Cải cách ruộng đất, chứng kiến nhiều cảnh ngộ bất nhẫn. Bà vợ sau của ông, gốc gác địa chủ lại là nạn nhân trực tiếp của chính sách. Ông bỏ công việc biên tập viên nhà xuất bản Văn Nghệ, bỏ Đảng, bỏ Hà Nội, về quê Thanh Hóa sống lao động lam lũ và vất vả : đốn củi, thồ củi, thồ đá bằng xe ḅ bánh gỗ và bị áp bức mọi mặt. Ông vẫn dũng cảm và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng đàn con mười đứa.

Năm 1988, Hữu Loan lại xuất hiện trong thời sự văn chương và chính trị, v́ tham gia một chuyến đi xuyên Việt do một vài anh em văn nghệ tỉnh Langbian tổ chức, để cổ động cho tự do, dân chủ, và có bài thơ Chuyện Di Tề :
 

Lịch sử là một
tṛ hề
diễn lại
diễn đi
chưa


mới mẻ
chỉ có bọn
Trùm Hề

nhiều
ngón
bịp
mới hơn

Trong bối cảnh đó, ông tự chọn cách tồn tại :

Tôi là cây
gỗ
vuông
chành chạnh
suốt đời
đă làm thất bại
mọi âm mưu đẽo tṛn
để muốn tùy tiện
lăn lóc thế nào
th́ lăn lóc.
Chân
tính
đấy
Hỡi
Ŕu
Bào
Phó mộc

Lưu ư : những chữ Ŕu, Bào, Phó mộc viết hoa.

*

Người xưa có câu « cái quan định luận » : đóng nắp quan tài, mới định luận được phẩm giá một người. Ngày nay sự việc có phần phức tạp hơn.


Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, trầm luân, đánh giá từ đâu, kiểu ǵ đi nữa th́ chúng ta đều phải công nhận hai nét son : tài hoa và tiết tháo.

Làm nhớ đến một câu văn tế xa xưa :

 
Ngọc dầu tan,
vẻ trắng nào phai
Trúc dẫu cháy,
tiết ngay vẫn để.


Đặng Tiến

Orléans, vào Xuân, 21.3.2010


D Đ

 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>