Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này


Lăng kính và sự khúc xạ ánh sáng mặt trời

 


  
ISAAC NEWTON
1642-1726

 
 

MỘT THIÊN TÀI VĨ ĐẠI SỐNG CÔ LIÊU
TRÊN TRÁI ĐẤT ĐỂ T̀M RA MỘT LUẬT
CHI PHỐI TINH TÚ Ở TRÊN ĐỜI



"Let men rejoice that so great a glory of the human race has appeared ".
"Loài người nên hoan hỉ rằng một vinh quang lớn lao bực ấy của nhân lọai đă xuất hiện" (Hàng chữ khắc trên mộ của Newton tại điện Westminster).

"Tôi có cảm tưởng rằng tôi chỉ là một em bé chơi đùa trên bờ biển và thỉnh thoảng lượm được một ḥn cuội nhẵn hơn hoặc một cái vỏ ṣ đẹp hơn những cái người ta thường t́m thấy, trong khi đó biển chân lí mênh mông trải ra trước mặt nó, vẫn hoàn toàn bí mật, chưa hề bị xâm phạm".

Đọc hai câu tôi trích dẫn ở trên, độc giả thấy một sự tương phản rơ rệt. Không có một nhà bác học nào được thế giới ngưỡng mộ như Newton; danh ông chói lọi hơn Aristote thời thượng cổ, hơn Descartes ở thế kỷ XVII , hơn cả Einstein gần đây : vậy mà lời tự xét của ông nhũn nhặn đến thế : Ông t́m ra được một luật chi phối tinh tú, mà ông chỉ tự cho ḿnh là một em bé trước sự bí mật vô biên của vũ trụ. Không phải là ông giả nhũn đâu . Phải có một bộ óc sáng suốt như ông mới thấy rằng tất cả những cái hiểu biết, chỉ như một ḥn cuội so với đại dương .

Vị thiên tài đó sống một đời cô độc . Ông thọ 84 tuổi mà h́nh như chỉ có một lần , hồi 17, 18 tuổi, yêu một thiếu nữ rất đẹp, cô Storay, yêu mà không dám ngỏ lời, yêu một cách rất thuần khiết , lí tưởng , rồi th́ thôi, suốt đời ở độc thân.

Ông cô độc ngay từ hồi mới sanh, Phụ thân ông mất năm 37 tuổi, trước khi ông ra đời. Mẫu thân ông là một người nhà quê rất tầm thường. Xem kĩ gia phả bên nội bên ngoại ông, không thấy có một người nào thông minh xuất chúng cả. Ông h́nh như ở trên trời lạc xuống cơi trần, không được hưỡng một chút di truyền ǵ của tổ tiên, và khi ông mất th́ ḍng dơi ông cũng tuyệt.

Cả về phương diện tài năng, ông cũng cô độc nữa Pierre Rousseau trong cuốn Histoire de la Science (Lịch sử khoa học)do nhà Arthème Fayard xuất bản năm 1949, gọi thế kỷ của Newton v́ tài của ông vượt lên trên tất cả những nhà khoa học đương thời, bao trùm hết cả công việc của họ, mở những khu vực mênh mông cho người thời sau khám phá."ông như con đại bàng bay lượn lên cao, không có ǵ ở mặt đất mà không thấy.

Ông sinh thiếu tháng trong đêm Noël năm 1642 ở làn
Wollsthorp (Anh) ; nhỏ xíu , yếu ớt, có thể đặt nằm gọn
Tong cái b́nh một litre được . Cô mụ lắc đầu bảo : “Thằng
nhỏ này khó nuôi “ .Vậy mà ông vẫn sống ,lại sống lâu nữa.
Đặc biệt nhất là cái đầu của ông , nó nặng quá , cổ đỡ không
nổi , người ta phải làm một cái cổ giả bằng da cưng; đến khi
lớn tuổi, đi học rồi, ông vẫn phải đeo cái cổ giả đó, và bạn bè
chế giễu ông là thàng “đầu đá “ . Mới đầu ông c̣n nhịn,sau
chúng làm quá, ông nổi giận, sấn vào đánh tới tấp một đứa
lớn hơn ông. Từ đó chúng kệch . Tưởng ông yếu ớt , ngờ
đâu ông mạnh như vậy .

Nhưng ông chưa tỏ ra vẻ ǵ thông minh cả, mới đầu học
trường làng, rồi lên trường lớn ở Grantham. Tư chất đă tầm
thường mà lại không ham học, nên thường đội sổ. Không có
bạn thân , suốt ngày lầm ĺ, chỉ lúc nào hí hoáy làm đồ chơi là
mặt tươi lên một chút. Thích tẩn mẩn làm những cái diều ,
những cái đèn bằng giấy, hoặc chế tạo những cái đồng hồ
bằng nước, những cái xe con con để đẩy, những cái cối xay
lúa cho chuột kéo, những cái nhật quỹ để đo bóng mặt trời
mà tính giờ. Ai cũng bảo cái ngữ đó , sau có giỏi th́ chỉ làm
được thợ máy , đốc công là cùng.

Không ngờ sau vụ hạ một đứa bạn đă chế giễu ông,ḷng
tự ái phát triển , ông học để hơn chúng ,tuy chẳng đứng
đầu lớp ,nhưng cũng vào hạng khá khá . Thấy vậy, mẫu thân
ông cho tiếp tục học nữa và năm mười chín tuổi ông vô một
trường có tiếng, trường Cambridge.

Lúc đó ông có khiếu về toán, mấy năm trước cặm cụi tự học môn toán , rồi vô trường lại may mắn gặp được một nhà toán học có danh là giáo sư Isaac Barrow.

Thế kỷ 18 ở bên Anh, các trường Đại học không bắt buộc sinh viên phải theo một chương tŕnh nhất định như ngày nay. Ai muốn học môn nào tùy ư. Và Newtonchỉ thích môn h́nh học, đọc hết sách của Euclide và của Descartes. Ông Isaac Barrow, một người phiêu lưu khắp Pháp, Ư , có lần sống ở Constantinople, có lần lại đánh nhau với hải tặc Alger, tác giả một cuốn về Quang học, tỏ vẻ mến Newton, khen là “ Có khả năng xuất chúng và một cái tài biệt “. Nhưng sinh viên “Xuất chúng “đó vẫn không hơn ai trong các kỳ thi : năm thi vô Cambridge, lấy 24 người th́ ông đậu thứ 24 , rồi năm thi ra để lấy bằng thạc sĩ ,th́ ông chiếm chỗ của Tôn Sơn một lần nữa: đậu thứ 11 trong số 11 thí sinh.

Newton học ở Cambridge được một , hai năm th́ trường đóng cửa v́ Luân Đôn bị bệnh dịch hạch, Lần đó là một thiên tai ghê gớm nhất trong lịch sử Châu Âu. Chỉ trong có ba tháng, thần chết đă hái hết một phần mười dân số Luân Đôn. Ai nấy xanh mặt, đóng cữa im ỉm , nhà nào có người chết th́ quét vôi trắng ở cánh cửa, đêm đêm những xe ngựa lọc cọc nối hàng nhau chở quan tài và thay ma dưới ánh sáng yếu ớt của những ngọn đuốc . Các trường học đều băi khóa. Dân chúng rủ nhau tản cư về miền quê. Mà bệnh dịch vẫn tiếp tục hoành hành, gần hai năm như vậy, măi đến khi có người đốt một tiệm bánh ḿ, cho hỏa hoạn lan ra 400 ngơ hẻm ở châu thành , th́ tai nạn mới diệt được. Tính ra trước sau có đến trên mười vạn người chết!

Newton phải nghỉ học, về Woolsthrope để “ trầm tư mặc tưởng” mười tám tháng trong trại ruộng của mẫu thân . Ông bỏ hết cả sách vở lại Luân Đôn, đi chơi khắp đồng quê , thấy cái ǵ cũng nhận xét, suy nghĩ. Chính trong thời gian đó ông đă đặt được cơ sở cho học thuyết của ông sau này: ông đă t́m ra được luật vũ trụ dẫn lực (gravitation universelle), đặt ra môn vi tích toán(calcul infinitésimal và lập ra một thuyết mới về quang học . Lúc ấy ông mới hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi .

Ông chỉ mới t́m ra lư thuyết chứ chưa chứng thực được. Vả lại tánh vốn nhút nhát, không ưa sự quảng cáo, tranh biện, chỉ sợ bị chỉ trích, lắm lúc ngờ vực mọi người, nên ông không khoe với ai cả.

Khi bệnh dịch đă hết, Newton trở về Luân Dôn học tiếp, đem những thuyết của ḿnh ra bàn với thầy là giáo sư Barrow . Barrow nhận thấy thiên tài của ông, lúc về hưu đề nghị cho ông lên thay, nhờ vậy mới hai mươi sáu tuổi Newton đă chiếm được một ghế giáo sư ở Giảng đường học Cambridge. Ông giữ ghế đó luôn ba mươi năm, không lập gia đ́nh, về già ở với một người cháu gái, không giao thiệp với ai, suốt ngày tính toán , nghiên cứu.

Công việc ông rất nhàn: mỗi tuần chỉ dạy có một giờ. Mà ông dạy rất dở , chẳng đào tạo nổi một nhà bác học nào hết, giảng bài th́ sinh viên không hiểu cho nên lớp học rất thưa thớt . Có lần ông tới Giảng đường , thấy vắng hoe , chẳng ma nào tới nghe, ông khoan khoái, xoa tay bước về nhà, tiếp tục chế tạo một ống kinh viễn vọng để ngắm trăng sao.

Hồi ba chục tuổi tóc đă bạc nhiều, nhưng cặp mắt rất sáng, vẻ mặt thanh tú, rất ít ốm đau . Trực giác của ông rất cao, không cần phân tích dài ḍng mà có thể đi sau ngay vào vấn đề , bao quát mọi phương diện. Kinh khủng nhất là khả năng tập trung tư tưởng của ông . Ông có thể suy nghĩ liên tiếp suốt ngày về những vấn đề cực kỳ phức tạp , rồi một khi ư ǵ xuất hiện ông chạy ngay lại bàn viết , cứ đứng mà viết hàng giờ, không cần ngồi . Ông thường quên th́ giờ, quên ăn, quên ngủ . Rất ít khi đi ngủ trước hai giờ khuya. Pierre Rousseau bảo lúc làm việc th́ những nhu cầu thể chất của ông biến hết: con người ông không c̣n nữa.

Người ta kể chuyện có lần ông đăng trí mời bạn dùng cơm tối mà rồi ông làm việc , quên bẳng đi. Người bạn tới , đợi hoài không thấy chủ nhà đâu cả , chỉ thấy con gà luộc c̣n nóng đặt trên bàn , dưới một cái chuông úp , cắt gà ra ăn một ḿnh , để phần một nửa cho Newton. Mấy giờ sau, Newton mới ở trong pḥng viết bước ra , chẳng chào hỏi ǵ bạn, chỉ kêu đói quá , mở cái chuông lên, ngạc nhiên thốt : “Ủa tôi cứ tưởng là tôi chưa ăn , không ngờ đă ăn hết nửa con gà rồi! “
Câu chuyện đó có thể chỉ là một giai thoại bịa đặt. Điều chắc chắn là chính Newton cũng nhận rằng một khi đă nhĩ về một vấn đề nào th́ cứ phải nghĩ hoài cho tới khi giải quyết xong mới thôi . Ông bảo:

“Óc tôi không có ǵ minh mẫn đặt biệt... mà chỉ có một khả năng suy nghĩ khá mạnh... Sở dĩ tôi phát minh được ít nhiều là nhờ tôi chịu nghĩ hoài về một vấn đề, để cho những tia sáng hiện ra lần lần đến khi thành một ánh sáng rực rỡ mới thôi “.

Đọc đoạn dưới về sự t́m ṭi ra luật vũ trụ dẫn lực, độc giả sẽ thấy đó là đúng .


Quang phổ - Newton

Năm 1672, ông chế tạo được một kiểu kính viễn vọng có gương. Tuy h́nh c̣n thô sơ nhưng qui tắc đă gần hoàn hảo, và những kính viễn vọng tối tân nhất hiện nay cũng vẫn c̣n áp dụng hiểu của ông. Hội phát triển Khoa học Vạn vật ở Luân Dôn đặt ông chế tạo một cái cho hội, rồi lại bầu ông làm hội viên, yêu cầu ông tuyên bố những thí nghiệm của ông về quang học cho hội hay .

Từ trước người đă biết rằng ánh sáng mặt trời chiếu qua một tam lăng kính (prisme) th́ thành bảy thứ ánh sáng, mỗi thứ một màu mà ta thấy trên cầu vồng. Newton suy nghĩ về hiện trạng đó rồi tính toán, lập ra một thuyết rằng ánh sáng phát ra nhờ những phần tử rất nhỏ. Thuyết đó , người đồng thời không ai bác được , nhưng hội Vạn vật học ở Luân Dôn cũng cứ la ó rầm lên v́ nó khác hẳn những thuyết cũ của Euclide, Archimède, Descartes . Cũng ở thế kỷ XVIII , Huygens đặt ra một thuyết khác : ánh sáng truyền đi xa được là nhờ những luồn sóng (quang ba) ; về sau Fresnel , Maxwell lại lập ra những thuyết khác và hiện nay nhiều nhà bác học vẫn đương nghiên cứu , chưa ai dám cả quyết là nắm chắc được chân lí. Vậy mà các bạn của ông trong hội Vạn vật học chế giễu ông, mỉa mai ông, làm cho ông chua chát, than thở:

- Tôi thấy rằng có ư ǵ mới th́ đừng nên đưa nó ra , hoặc nếu đưa ra th́ phải làm mọi cho những ư mới của ḿnh mà chống đỡ nó cho tới cùng.

Từ đó ông lại càng chán ghét, không muốn tuyên bố ǵ cả . Nhưng ông vẫn tiếp tục nghiên cứu .

Ông muốn yên ổn sống, song không được. Năm 1684 Leibniz phát minh được một môn toán , môn vi tích. Chúng tôi không muốn giảng, dù là giảng rất sơ sài về môn này, sợ chỉ làm cho một số đông độc giả thêm ngán. Chúng tôi chỉ thưa rằng nó là một môn hơi cao, dạy cách tính những vật nhỏ tí t́ , không có trong chương tŕnh trung học, nhưng rất cần thiết cho khoa học , không hiểu nó th́ không thành một kỹ sư giỏi được . Đồ đệ của Leibniz, đem truyền bá môn đó ở các nước châu Âu và xuất bản một cuốn nhan đề là Analyse des infiniments petits Phân tích những cái vô cùng nhỏ) . Năm 1693 Newton hay tin đó, rất bực ḿnh vi chính môn toán đó ông đă phát minh từ hồi ngoài 20 tuổi , non ba chục năm trước rồi, bây giờ có kẻ ra sau ông tranh mất danh của ông. Đến khi môn toán của ông Leibniz đem dạy ở ngay Luân Đôn th́ cuộc xung đột bùng nổ . Người Anh bảo rằng Newton đă phát minh và Leibniz đă ”đạo toán” của ông . Leibniz căi lại rằng nếu Newton phát minh trước , sao không tuyên bố, không in sách ? Lời qua tiếng lại luôn mấy năm .

Ông Robert Strother , trong bài Sir Isaac Newton à la découverte de l’Univers (tạp chí Sélection du Reader’s Digest số tháng 10 năm 1955) bảo rằng một đồ đệ của Leibniz, tên là Jean Bernouilli- nhà toán học thụy Sĩ – t́m ra một cách để giải quyết vụ tranh chấp giữa Anh và Đức đó : ông ra hai câu bài toán cho Newton và leibniz giải xem ai hơn ai kém. Kỳ hạn là 1 năm.



Leibniz giải được một bài , đương giải bài kia th́ hết hạn. C̣n Newton giải xong cả hai bài trong hai mươi bốn giờ , rồi gởi cho hội nghiên cứu Vản vật học ở Luân Đôn để đem in mà kư tên là vô danh . Bernouilli đọc bài giải của Newton, chua chát nhận rằng ; " Chỉ trông thấy bàn cẳng đă biết ngay là loài sư tử rồi " .

Giai thoại đó không thấy chép trong sách khác, nên tôi ngờ là chuyện bịa .

Bây giờ đây các nhà bác học có đủ tài liệu để xử vụ đó, đều nhận rằng không có ai " đạo " của ai hết . Mỗi người ở một nơi, và cùng đi đến mục đích ,do những con đường khác nhau . Con đường của Newton không tiện lợi bằng , mà Leibniz có công đăng kết quả trên báo, đào tạo đồ đệ, c̣n Newton cứ khép cửa tháp ngà , nên cái danh đó phải trả lại cho Leibniz , và hiện nay các nhà toán học đều theo phương pháp của Leibniz.

Mà có trả cho Leibniz th́ cũng chẳng thiệt ǵ cho Newton cả v́ chỉ một sự phát minh ra luật vũ trụ dẫn lực cũng đủ cho thế giới đặt ông ngang hàng với các bậc thánh.

Chắc nhiều vị độc giả đă được nghe truyện trái pomme (táo tây) của Newton. Tôi c̣n nhớ các nhà cách mạng của ta hồi ba, bốn chục măm trước thường dùng chuyện đó đễ cảnh tĩnh đồng bào , và có một lần tôi đă mắc cỡ đến đỏ mặt v́ nó.

Hồi ấy, tôi mới đậu bằng cấp tiểu học, mà ở một làng hẻo lánh tại Sơn Tây vào năm 1926 th́ đậu bằng tiểu học đă là có hạng lắm rồi. Người làng gọi tôi là "cậu giáo" mặc dầu tôi vẫn c̣n đi học . Một hôm , trong một đám giỗ, đông đủ họ hàng và hương chức trong làng, bác tôi hỏi tôi có biết truyện quả táo tây của Ngưu Đốn không .

Tôi bí,mà nói toạc cái dốt của ḿnh ra :

- Thưa bác, con không biết Ngưu Đốn là ai .

Bác tôi mỉm cười :

- Giáo ǵ mà ngu thế ? Không biết Ngưu Đôn là ai ? Một nhà bác học danh tiếng bậc nhất châu Âu mà mày không biết ? Tao chẳng học tiếng tây tiếng u ǵ mà tao cũng biết . Để tao kể truyện quả táo của Ngưu Đôn .

Nghe xong, tôi phục bác tôi lắm, nhưng quả thực là xấu hổ với họ hàng , làng mạc . Sau này lớn lên , đọc bộ Ẩm băng thất của Lương Khải Siêu tôi mới biết rằng bác tôi hiểu được ít nhiều về văn minh phương Tây đều là nhờ nhà cách mạng họ Lương của Trung Hoa. Họ Lương đem truyện trái táo của Newton để mắng dân Trung Hoa là có mắt mà như đui, nghĩa là chỉ biết nh́n những cái phù phiếm , những mũ cánh chuồn, những cân đai vơng lọng, chứ không biết nh́n như Newton nh́n trái táo , nên chẳng phát minh ra được cái ǵ cả, đến nỗi cái thứ thuốc mà tổ tiên họ t́m ra hồi xửa hồi xưa , chỉ để làm pháo đốt chơi cho phí tiền th́ người Âu biết cải thiện, chế ra đạn đại bác để đánh bại họ trong trận Nha phiến. Tôi sợ bác tôi và nhà cách mạng họ Lương quá. Độc giả thử nghĩ coi : mắt ḿnh đang tỏ như vậy, các cụ mắng rằng ḿnh đui, mà ḿnh không căi vào đâu được, th́ làm sao chẳng bái phục kia chứ !

Về câu chuyện trái pomme đó có nhiều thuyết lấm. Nhiều sách chép rằng một người cháu gái của Newton, bà Conduit, kể cho Voltaire trong một chiều nọ - có sách bảo là một đêm trăng , - rằng trong lúc trốn bệnh dịch hạch ,tản cư về quê nhà, Newton thấy một trái pomme từ trên cây rụng xuống . Ông bèn tự hỏi :
-Tại sao trái pomme th́ rụng mà mặt trăng lại không rớt nhỉ .

Rồi ông suy nghĩ, t́m ngay ra được luật vũ trụ dẫn lực, mà người ta c̣n gọi là luật Newton. H́nh như về già, ông có kể chuyện đó lại cho một bạn thân là ông William Stukely, bảo rằng trái pomme đó làm cho ông ngờ rằng trái đất có một sức hút nó ; mà trái pomme cũng có một sức hút trái đất, nhưng trái đất lớn hơn nhiều,nên sức hút nó thắng sức hút của trái pomme và trái pomme rớt xuống đất đúng theo cái hướng về trung tâm trái đất.

Nhưng có nhiều người cho chuyện đó là hoang đường, người ta bịa ra gán cho nhà thiên văn học Képler,rồi lại gán cho Newton. Nhà toán học Đức Gauss(1778-1855) nghe được đă nổi giận, bảo : « Đồ điên ! Sự thực là như vậy ; có kẻ muốn bợ Newton hỏi ông làm sao đă t́m ra được luật vũ trụ dẫn lực, Newton thấy óc hắn c̣n non nớt, không sao hiểu nổi, muốn đuổi hắn đi cho khỏi mất th́ giờ, nên đáp : ‘’ Nhân một trái pomme rớt đúng vào mũi tôi, mà tôi t́m ra được luật ấy ‘’.

Không biết thuyết nào đúng, nhưng điều chắc chắn là Newton tuy không được hưởng một chúc di truyền ǵ của tổ tiên, như tôi đă nói ở trên, ít nhất cũng đă chịu ảnh hưởng những tư tưởng của các nhà bác học tiền bối. Trước ông, Copernic và képler đă ngờ rằng tinh tú có sức hấp dẫn nhau ; rồi người Ư Borelli, người Pháp Bouilliaud, các người Anh Wren, Halley và Hocke đă đoán rằng sức hấp dẫn đó thay đổi tùy theo các tinh tú cách nhau xa hay gần, hễ khoảng cách tăng lên gấp hai th́ sức hấp dẫn nhỏ đi , c̣n một phần tư ; nếu khoảng cách tăng lên gấp ba th́ sức hấp dẫn nhỏ đi, c̣n một phần chín. Nhưng họ chỉ đoán lờ mờ như vậy thôi chứ không chứng thực nổi. Đọc lịch sữ khoa học, ta thấy rằng một thiên tài dù là ‘’ trên trời rớt xuống’’ như Newton , nếu không sinh đúng cái thời thuận tiện, có người trước mở đường, đường người đồng thời có một tŕnh độ đủ hiểu ḿnh, lại có đủ phương tiện để làm việc, thí nghiệm th́ không thể phát minh được một thuyết mới. Có khi gặp thời đă chín mùi, một ư mới nào đó xuất hiện ở nhiều nơi một lúc-người Pháp bảo là ư đó ‘’bàng bạc’’ trong không trung –và hai bác học ở xa nhau,không liên lạc ǵ với nhau, cùng nghiên cứu một vấn đề, cùng t́m ra một kết quả, tức như trường hợp lập ra môn vi tích toán của Newton và Leibniz.


Ṿng Màu sắc - Newton

Vậy thế kỷ XVIII, luật vũ trụ dẫn lực đă có nhiều nhà mờ mờ thấy rồi và Newton có tài hơn hết thảy nên đă t́m ra được rồi chứng thực được. Nếu câu chuyện trái pomme có thiệt th́ chắc ông đă suy nghĩ như vậy :

‘’Tr ái pomme ở trên cây rớt xuống ; nhưng nếu cây đó cao hơn trăm, ngàn lần nữa th́ trái có rớt không ? Sức bí mật nó hút mọi vật về trái đất cả trăm ngàn vây số không ? Chẳng hạn,mặt trăng cách trái đất 384.000 cây số, có bị trái đất hút không ? Chắc là có. Nhưng như vậy tại sao mặt trăng không rớt mà cứ chạy ṿng tṛn trên không trung ? Vậy th́ có một sức ǵ khác nữa ảnh hưởng đến mặt trăng ?...’’

Rồi ông giả thuyết một luật : tất cả các vật trong vũ trụ đều hút lẫn nhau, vật càng lớn th́ hút càng mạnh, lớn gấp hai, gấp ba th́ sức hút gấp hai gấp ba ; vật càng xa th́ hút càng yếu, nếu xa gấp hai th́ sức hút chỉ c̣n một phần chín ; nói theo nhà toán học th́ sức hút thay đổi theo tỉ lệ thuận với tọng khối , và theo tỉ lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách nhau của các vật.

Muốn thử xem luật đó đúng không, ông tính sức hút lẫn nhau của mặt trăng và trái đất. Nhờ những người trước tính sẵn, ông biết khoảng cách của mặt trăng với trái đất. Nó bằng sáu chục lần bán kính trái đất .

Ông lại biết được bán kính mặt trăng, do đó biết được trọng khối của nó ; nhưng c̣n bán kính trái đất th́ chưa biết chắc. Snellius năm 1617 và Norwoord năm 1633 đă đo bán kính đó, kết quả khác nhau khá nhiều mà đem dùng thử luật của ông th́ sai bét. Ông bỏ không nghiên cứu vấn đề đó nửa , quay về môn quang học.

Nhưng ông vẫn không thể không nghĩ hoài đến nó được. Ông đợi đến năm 1682 . Trong một phiên họp của hội Vạn vật học Luân Đôn , một ông bạn cho hay người Pháp Picard đă đo được trái đất một cách rất đúng, đúng hơn người trước nhiều. Ông hỏi ngay: Picard cho bán kính trái đất là bao nhiêu toise (
thước hồi xưa , bằng 1.949mét). Đáp: 3.269.000 toise . Ông vội vàng ghi con số đó, về nhà thử lại bài toán về luật vũ trụ dẫn lực. Làm gần xong, thấy luật đúng quá, ông mừng rỡ , cảm động đến nỗi không b́nh tĩnh để làm nốt , phải nhờ bạn làm tiếp. Ít bữa sau ông thử đi thử lại. Thế là tháng sáu năm 1682, một phát minh lớn lao nhất của nhân loại đă xuất hiện.

Nhưng ông vẫn chưa vội tuyên bố, bỏ ra bốn năm nữa, tính toán suốt ngày, áp dụng luật đó vào các hành tinh khác, cũng lại đúng nữa, áp dụng vào hiện tượng thủy triều, cũng vẫn đúng. Lúc đó ( 1686 ) ông mới nghĩ việc tuyên bố kết quả. Một người bạn sẵn sàng bỏ tiền ra in cho ông, nhan đề Qui tắc (Principes) . Sách cao quá, cả châu Âu thời đó chỉ có độ ba, bốn người đọc mà hiểu rành được. Năm đó ông 44 tuổi , tính ra để suy nghĩ về vấn đề đó non 20 năm. Vậy chẳng những ông được hưởng cái công của người trước mà c̣n hưởng công của người Pháp đồng thời với ông nữa . Khoa học quả thực là của chung của nhân loại chứ chẳng phải là của riêng nước nào .

Đúng một trăm sáu mươi măm sau khi Qui tắc ra đời, người ta mới thấy luật vũ trụ dẫn lực của Newton hiệu nghiệm ra sao. Một nhà thiên văn Pháp, tên là Le Verrier không dùng kính viễn vọng để ngắm trời, chỉ cặm cụi tính trong pḥng giấy, luôn trong mười một tháng, áp dụng luật Newton, bôi đầy 10.000 trang toán-kinh hồn chưa ! - rồi tuyên bố với thế giới rằng, ở nơi đó trên trời phải có một hành tinh nhỏ mà mắt trần không thấy. Các nhà thiên văn nhao nhao lên, đón tin đó như ngày nay chúng ta đón tin hỏa tiễn lên cung trăng vậy. Galle nhà bá học Đức, hay tin ngày 26 tháng 9 năm 1846, vội vàng ngay đêm ấy, chĩa kính viễn vọng về điểm mà Verrier đă chỉ, quả nhiên thấy một hành tinh, mà người ta đặt tên Neptune. Bộ óc của loài người nhỏ chỉ bằng nắm tay mà vĩ đại thật !

Tập Qui tắc chỉ có ba bốn người hiểu , nhưng đă làm cho mọi người thán phục. Sau này Laplace bảo :

‘’ cuốn sách sẽ c̣n là một công tŕnh bất hủ, thâm thúy của một thiên tài đă phát lộ cho ta cái luật lớn lao nhất của vũ trụ ‘’. C̣n Lagrange th́ như có vẻ như ghen tuông , thở dài:’’Newton đă sung sướng quá, có một vũ trụ để mà giảng ! Khổ thay! Không c̣n một vũ trụ thứ nh́ để ông khám phá ra, t́m ra một luật nữa như luật của Newton. Voltaire th́ hồn thơ lai láng, hỏi rằng những thánh thần ở trên cao kia, có ghen với Newton vĩ đại không ?

Confidents du très Haut, Substances éternelles,

Parlez : du grand Newton, n’étiez vous pas jaloux ?



Danh ông vang lừng. Năm 1688, viện đại học Cambridge bầu ông vào Quốc hội đại diện cho viện. Nhưng nhà bác học thiên tài của ta rất tồi, hạng nghị câm. Suốt hai năm ở Quốc hội ông chỉ mở miệng có mỗi một lần, không phải để phát biểu ư kiến ǵ cả mà chỉ để bảo kẻ môn lại đóng giùm cho ông cái cửa sổ .

Năm 1693, ông được bổ nhiệm chức Giám đốc ngân khố, lương rất cao 30.000 quan mỗi năm. Ông không có tài ǵ về hành chánh nhưng làm việc rất cần mẫn, bảo: ‘’ Tôi không muốn cho người ta ngờ rằng tôi đem th́ giờ làm việc công để làm việc tư ‘’.

Lạ lùng hơn nữa là ông rất lí tài , khéo làm ăn, dành dụm, mặc dầu chẳng có con cái ǵ cả mà chết đi cũng để lại được một gia tài rất lớn: ba mươi hai ngàn Anh bảng. Người ta chê ông hơi ích kỷ, không có bạn thân, không có ḷng thương người-h́nh như khi bộ óc phát triển quá th́ con tim cũng chịu ảnh hưởng mà teo lại-có kẻ xấu miệng bảo ông hà tiện, suốt đời không hút một điếu thuốc , nhưng ông đáp rằng dại ǵ mà tạo thêm một nhu cầu mới .

Năm 1705 , Hoàng hậu Anh làm lễ phong hầu cho ông. Ông là bác học đầu tiên của Anh được vinh dự đó. Hàn lâm viện Ba lê tặng ông một ghế trong số tám ghế dành cho người ngoại quốc .

Nhưng có lẽ v́ bao nhiêu tinh anh đă phát tiết hết, nên từ hồi 48 tuổi ông không nghiên cứu ǵ được nữa. Có lần chỉ trông thấy ngọn cỏ dại trong vườn ông cũng nỗi cơn điên lên . Nhiều khi ông lảo đảo quay tṛn, tỉnh rồi, chép trong nhật kư:’’ Tôi đâm ra oán ghét khoa học ‘’. Ông nghĩ ngơi ba năm , đến năm 1695 , hết bệnh điên, nhưng không làm việc tinh thần nặng nhọc nữa .

Ông Thọ 84 tuổi , trong hai chục năm cuối , bị chứng bệnh có sạn trong mật. Khi nổi cơn lên , ông đau dữ , toát mồ hôi, nhưng can đảm chịu , không rên, không kêu; và cơn qua rồi ông lại vui vẻ như thường.

Ông mất ngày 20-03-1726. Triều đ́nh Anh làm lễ quốc táng, đặt ông nằm chung với các vua chúa Anh ở điện Westminster. Đó là một vinh dự không phải cho ông mà cho Hoàng gia Anh. Trên mộ khắc hàng chữ tôi đă dẫn ở đầu bài này :

“Loài người nên hoan hỉ rằng một vinh quang lớn lao bực ấy của nhân loại đă xuất hiện “.


Trong số người đi sau linh cữu, ngoài các bậc vươn hầu, các nhà bác học, các danh nhân Anh, c̣n có một văn sĩ Pháp Voltaire. V́ bạt tai quận công De Rohan ông phải đày qua Anh. Thấy đám tang cực kỳ long trọng, ông ngạc nhiên tự hỏi : “Newton có công lao ǵ mà được cái vinh dự đó “ .

Về nhà ông tra cứu, t́m hiểu sự nghiệp của Newton , viết tập Những bức thư Anh (Lettres anglaises cũng có tên là Lettres phillosophiques) đả đảo chánh quyền Pháp, coi vua Pháp ngang hàng với ḿnh, và hô hào đồng bào đừng tin phương pháp lí luận của Descartes mà nên theo phương pháp thực nghiệm của Bacon và Newton .

Năm 1734 trở về cố hương, ông xuất bản ngay tập đó, gây một cơn dông dữ dội. Triều đ́nh Pháp tịch thu sách đem đốt, ông phải trốn ở Lorraine, với “người đẹp” là bà Du Châtelet . H́nh như bà cũng chẳng đẹp ǵ lắm, đă hai mươi chín cái xuân xanh , có chồng, mặt thon, răng hư mà ngực lép. Nhưng bà thông minh, thích khoa học, nhất là vật lí và thiên văn. Ở Lorraine bà th́ dịch tập Qui tắc của Newton c̣n ông th́ soạn một cuốn nhan đề Toát yếu triết học Newton ( Eléments de la philosophie de Newton). Nhờ vậy mà những phát minh của Newton được truyền bá rất mau ở Pháp. Thực không ngờ một cái bạt tai lại có ảnh hưởng lớn bậc ấy đến khoa học .

Bạch tuyết
France, Paris 5.2005
(Cùng một tác gỉa )

Trích từ GƯƠNG HI SINH
(của NGUYỄN HIẾN LÊ )
do nhà xuất bản văn hóa thông tin 43 L̉ ĐÚC – HÀ NỘI - VIỆT NAM


 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>