Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này

 


  
ÔNG BÀ CURIE

 
 

MỘT GIA Đ̀NH ĐOẠT TỐI CAO KỲ LỤC VỀ GIẢI NOBEL

Bạn nào muốn t́m hạnh phúc trong hôn nhân nên nhớ câu : "yêu nhau không phải ngồi ngó nhau suốt ngày mà là cùng ngó chung một hướng’’ của Saint Exupéry; và phải đọc tiểu sử của ông bà Curie, một cập vợ chồng kiểu mẫu làm cho nguyệt lăo cũng phải ghen, rất mực khác nhau mà cực kỳ hoà hợp với nhau.

Vâng, ông bà Curie có nhiều điểm bất đồng, có thể nói là tương phản nữa. Ông là người Pháp, bà là người Ba Lan, ngôn ngữ và phong tục khong giống nhau. Bên ông hồi đó người ta gọi là hạng "tư tưởng tự do ". Nghĩa là không theo một tôn giáo nào cả; c̣n bên bà th́ theo đạo Ki Tô đă từ mấy đời. Tính t́nh cũng khac : ông có vẻ mơ mộng hiền lành, bà th́ lanh lợi, hoạt động, hơi bướng bỉnh, Và chí hướng hồi chưa cưới c̣n khác xa nữa : bà là công dân một nước nô lệ chỉ muốn đem hết tài lực ra hy sinh cho tổ quốc, khai hoá dân trí và bẻ gẫy cùm xích của Nga; c̣n ông, th́ không biết những ranh giới quốc gia, chỉ nhắm mục đích phụng sự khoa học và nhân loại.

Như vậy th́ ai chẳng bảo rằng cặp vợ chồng đó khó ở đời với nhau được. Nhưng kết quả ngược lại : trong lịch sử khoa học, người ta chưa thấy cuộc hôn nhân nào đẹp đẽ hơn, đằm thắm hơn, mà lại ích lợi cho nhân loại hơn.

Ông tên là Pierre Curie, sanh ngày 15 -5-1859 trong một gia đ́nh trung lưu, gốc gác ở Alsace, lập nghiệp ở Ba Lê. Thân phụ là một lương y thích nghiên cứu về khoa học, rất săn sóc sự học của các con. Tánh chậm chạp, mơ mộng, nhưng có khiếu về toán và vật lí, lại nhờ được cha và thầy (ông A.Bazille, một giáo sư toán có tài) khéo d́u dắt nên năm mười sáu tuổi, Pierre Curie đậu tú tài khoa học, rồi hai năm sau đậu cử nhân vật lí. Năm mười chín tuổi, ông được làm một chân giúp việc thí nghiệm cho các giáo sư trường đại học Khoa học ở Ba Lê, và gặp cơ hội thuận tiện, ông bắt đầu t́m toài về Khoa học. Tài của ông xuất hiện liền. Ông nghiên cứu các tinh tể kiếm được một kiểu cân rất nhậy. Sau mười lăm năm cặm cụicho khoa học như vậy, danh ông đă được nhiều bác học ngoại quốc biết tới, nhất là ông Kelvin ở Anh rất hâm mộ ông-nhưng chính phủ Pháp vẫn chưa hề để ư tới ông, vẫn chỉ trả ông một số lương là 3.000 quan một tháng, tức lương của một người thợ chuyên môn thời đó. Ông không lấy vậy làm buồn, chỉ buồn là chưa kiếm được người tri kỷ. Xét những thiếu nữ chung quanh ông thấy họ rất tầm thường. Năm hai mươi hai tuổi, ông đă chán ngán, ghi vào nhật kư :

" Đàn bà c̣n yêu cuộc đời vui vẻ trẻ trung hơn đàn ông chúng ta nhiều; thật hiếm thấy phụ nữ có thiên tài. Cho nên chúng ta bị một t́nh yêu huyền bí nào thúc đẩy mà muốn tiến vào một con đường trái với thiên nhiên, khi chúng ta để hết cả tâm tư vào một công tŕnh nó bắt ta phải cách biệt nhân loại mà ta thương mến th́ chúng ta phải chiến đấu với phụ nữ; -và trong cuộc chiến đấu đó, gần như luôn luôn ta thua họ v́ họ viện lư rằng phải sống vui vẻ, hợp với luật tự nhiên, để rán kéo chúng ta về con đường của họ ".

Những hàng đó ghi rơ chí hướng của ông. Ông nhất định lựa một người bạn trăm năm có thiên tài để cùng nhau phụng sự khoa học và nhân loại, Và ông phải đợi trên mười hai năm mới t́m được người vừa ư. Người đó là cô Marie Sklodowska, một sinh viên Ba Lan, theo ban khoa học ở trường Đại học Sorbonne.

Gia đ́nh cô Marie rất nghèo nhưng rất hiếu học. Thân phụ cô dạy môn vật lư ở một trường trung học Ba Lan, thân mẫu cô là hiệu trưởng một trường ở Varsovie trong một thời gian, sau bị bệnh loa phổi, phải nghỉ. Cô là con Út, sanh ngày 7-11-1867, có bốn anh và chị. Rất thông minh : bài nào cũng chỉ đọc hai lần là thuộc : lại rất ṭ ṃ, gặp sách ǵ cũng đọc, mà một khi cuối đầu trên trang sách th́ hàng giờ không nhúc nhích, và bạn bè, anh chị phá phách ǵ ở bên cạnh, cô cũng không hề biết. Cũng như Pierre Curie, năm 16 tuổi cô đậu bằng cấp trung học; nhưng v́ cha già, phải nghỉ học, và ít tháng sau, phải làm nghề trẻ em học trong các nhà giàu để kiếm tiền giúp nhà. Cô c̣n dạy không cho các người nghèo, tin rằng khai dân trí là bước đầu để giành lại độc lập cho tổ quốc. Nhưng cô vẫn thấy sức học c̣n kém, vẫn mong được qua học bên Pháp, nên bàn với chị là cô Bronia, góp sức với nhau để có tiền du học; cô chị sẽ qua Ba Lê trước, họcY khoa; trong thời gian đó cô em dạy học, để dành tiền gửi cho chị; chị thành tài rồi, về nước, sẽ chu cấp cho cô em qua Ba Lê học về khoa học.

Chương tŕnh đó được thực hành liền. Một gia đ́nh giàu có ở thôn quê đón Marie về dạy học cho trẻ và trả cô một số lương khá hậu. Cô nhận lời, vừa dạy học, vừa tự học về vật lư. Được hơn một năm, cậu con chủ nhà yêu cô; cô cũng mến người phong nhă đó. Nhưng khi cậu xin phép cha mẹ để hỏi cô th́ bỉ cha mắng một trận dữ dội : "Tao mà lại đi làm thông gia với lăo già qưn đó à ?Mày là con chủ nhà mà đi cưới cái hạng gần như tôi đ̣i đó à ?’’. Cuộc t́nh duyên tới đó chấm dức hẳn. Cô Marie, chua xót trong ḷng, nhưng cũng rán nuốt hận, làm bộ không hay biết ǵ hết, ở lại thêm một năm, dành dụm thêm ít tiền, và khi cô chị không cần tiền phụ cấp của cô nữa, th́ cô xin phép cha qua Ba Lê du học liền.

Mùa thu năm 1891, cô tới BaLê, ghi tên vào ban Khoa học ở trường đại học Sorbonne. Mới đầu, cô tạm sống chung với chị và anh rể (một người Ba Lan, làm y sĩ ) sau ra riêng một gác xếp cật hẹp. Lúc đó cô gặp mọi nỗi thiếu thốn; nhưng tính khảng khái, không muốn nhờ cậy anh chị, cô âm thầm chịu đói rét. Một lần cô té xỉu trước mặt một người bạn. Người này đi báo cho ông anh rể của cô hay. Ông ta tới, lục xét trong pḥng không có một món ăn nào, ḷ ḷ th́ lạnh mà dĩa chén th́ sạch nhẵn, đoán được căn do, hỏi gạn cô một hồi, cô mới chịu thú là hai ngày rày, chỉ ăn trái anh đào, mà phải thức đến ba giờ sáng để học. Ông nổi giận, kéo cô về nhà ông, bắt cô phải nghỉ ngơi, bổ dưỡng trong ít bữa.

Nhưng cô tuyệt nhiên không thấy khổ. Trái lại, ngồi trong giảng đường, nghe những nhà bác học như Lippmann,Paul Appell giảng bài, cô c̣n thấy thích thú lạ lùng, quên cả đói và rét.

Cuối năm học đó, cô về thăm nhà, vui vẻ với gia đ́nh. Nhưng thu tới, gần đến kỳ tụ trường, cô lại lo lắng không biết kiếm đâu được tiền để du học hết niên khóa sau. Cũng may, năm 1893, cô được một học bổng là 600 rúp và hết hè cô lại được qua Ba Lê.


Marie - Irène
Giải thích về Radium cho Sỹ quan Mỹ

Đầu năm sau, cô gặp Pierre Curie tại nhà một người quen. Hai người nói chuyện với nhau về khoa khọc, và khi chia tay,Pierre Curie bâng khuâng, hỏi một câu vớ vẩn :

-Cô sẽ ở hoài bên đây chứ ?
Cô Marie hơi nhạc nhiên, nhưng tươi cười đáp :
-Thưa ông không ạ. Hè này nếu tôi thi đậu, tôi sẽ về Varsovie.
Nếu có tiền ăn học, qua thu tôi sẽ trở lại đây học nốt cử nhân toán rồi về nước dạy học. Tôi không có quyền bỏ xứ sở trong lúc này.

Pierre Curie hơi thất vọng, nghỉ ngợi : "Cái cô Sklodwska này cũng lạ lùng. Ở Ba Lan qua đây học. Đậu cử nhân vật lí năm ngoái, năm nay lại học cử nhân toán. Thông minh như vậy, sao không phụng sự khoa họcmà lại muốn làm chính trị ? Phải t́m hiểu thêm cô ta mới được ".

Và càng t́m hiểu, ông càng phục, càng mê cô gái Ba Lan đó. Ông gặp cô mấy lần ở hội Nghiên cứu Vật lí, ở pḥng thí nghiệm của gióa sư Lippmann; ông gởi tặng cô một tập nghiên cứu về điện ông mới xuất bản, rồi xin phép được gặp cô trong pḥng chật hẹp của cô. Thấy cuộc sống nghèo nàn của Marie, ông lại càng quí mến cô và tin chắc rằng đă gặp được một thiếu nữ có thiên tài mà ḿnh hằng mơ tưởng mười mấy năm nay. C̣n cô, đối với ông, tuy cũng có nhiều cảm t́nh, nhưng chỉ là cảm t́nh của những bạn khoa học với nhau mà thôi : sau một lần trắc trở về t́nh duyên, ḷng cô cơ hồ đă lạnh.

Hè năm đó, cô về Ba Lan. Ông ân cần dặn :
-Tháng mười, cô trở lại nhé ? Ở Ba Lan th́ sao tiếp tục học được ? Mà cô không có quyền bỏ khoa học !

ông muốn nói :"Cô không có quyền bỏ tôi " đấy.

Cô Marie thản nhiên đáp :

-Tôi cũng muốn được vậy lắm.

xa cô, ông nhớ nhưng đánh bạo viết thư hỏi cưới. Cô từ chối. Lấy một người Pháp rồi bỏ gia đ́nh, xứ sởđi à ? Cha th́ già mà nước nhà trong cảnh nô lệ. Bỏ đi sao đành ? Không thể được !

Ông thất vọng. Cô an ủi, xin đem t́nh cầm sắt đổi ra cầm kỳ. Ông đành vân lời, nhưng vẫn gởi bức thư nồng nàn cho cô. Trong một bức thư, ông viết :

"Ch úng ta đă hứa với nhau (phải vậy chăng?) ít nhất cũng giữ được t́nh thân với nhau. Miễn cô đừng đỏi ư! V́ không có lời hứa nào bó buộc cả; nhưng cái đó, không ai ép được ai. Nhưng nếu chúng ta được sống bên cạnh nhau, mê man trong những mộng của chúng ta : mộng giúp nước của cô, giúp nhân loại và mộng khoa học của chúng ta, th́ đời sẽ đẹp biết mấy nhỉ ! Ôi, có thể như vậy được chăng ?

Trong những mộng đó, theo tôi chỉ có mộng cuối cùng là chánh đáng. Tôi muốn rằng chúng ta không thể thay đổi t́nh trạng xă hội được, và nếu có thay đổi đi nữa, th́ chúng ta cũng không biết nên làm cái ǵ, và khi hoặt động theo một chiều nào đó, chúng ta không bao giờ chắc chắn được là lợi nhiều hơn hại, v́ biết đâu ta chẳng làm chậm lại một cuộc biến hoá không sao tránh được. Về phương diện khoa học, trái lại, chúng ta có thể làm được cái ǵ : ở đây đỉa vị vững vàng và mỗi phát minh, dù nhỏ đến đâu, cũng là một thâu hoạch vĩnh viễn.

... Chúng ta đă đồng ư là giữ t́nh thân với nhau, nhưng nếu trong một năm nữa, cô vĩnh biệt nước Pháp mà chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa th́ t́nh thân đó chẳng viễn vông quá ư ? Cô ở lại với tôi có phải là hơn không?"
Bức thư đó so với bức thư của Pasteur gởi cho cô Marie Laurent (cũng lại Marie nữa) để cầu hôn th́ giọng đằm thắm, khả ái hơn nhiều. Ai ngờ một nhà khoa học đă ba mươi lăm tuổi mà lời t́nh tự như vậy nhỉ ?

Mùa thu năm đó, cô Marie lại trở qua Balê để học. Pierre Curie mừng rơn, lại càng gắg công đeo đuổi. Ông năn nỉ cô cho ông được làm việc trong một căn pḥng ở bên cạnh pḥng của cô. Tất nhiên hai pḥng cách biệt hẳn nhau. Cô từ chối. Ông lại đ̣i cuối niên học, theo cô qua Ba Lan: ở đó ông sẽ dạy Pháp ngữ để sống rồi khảo cứu về khoa học với cô. Ông biết rằng ở Ba Lan không thuận tiện để khảo cúu, nhưng mặc, miễn là được ở gần cô. Cô vô cùng cảm động, nhưng không thể nhận một sự hy sinh lớn lao tới bực đó. Ông không thất vọng, dễ ǵ kiếm được một thiếu nữ có thiên tài ! Cho nên đă gặp được, th́ ông nhất định níu lấy.

Rốt cuộc, măi tới mười tháng sau, cô Marie mới xiêu ḷng và nhận lời : Lễ cưới định vào ngày 25-7-1895. Lễ rất đơn sơ, khác hẳn thế tục. Cô dâu không bận áo trắng, (cô chỉ may một chiếc áo xanh dương để cưới, không bầy tiệc cưới, không làm lễ tại nhà thờ (v́ một năm nay, cô đă chịu ảnh hưởng của Pierre Curie, chuyên tâm vào khoa học mà nhác việc đi lễ ), mà cũng chẳng mời trưởng khế tới dự : gia tài của hai bên có ǵ đâu, ngoài hai chiếc xe máy mới mua do tiền mừng của một người thân.

Nhưng cuộc hôn nhân giản dị đó lại là cuộc hôn nhân thành công nhất cổ kim, thành công v́ đă gây được hạnh phúc cho hai bên, và cho cả nhân loại. Chắc chắn là là nếu hai ông bà không sống chung với nhau th́ sự nghiệp khoa học của bà không có ǵ mà sự nghiệp của ông cũng không được rực rỡ như sau này ta sẽ thấy.

Thế là sau một năm rưỡi đeo đẳng, ông đă hoàn toàn cảm hoá bà, mà những bất đồng giữa hai bên đă san phẳng: bà đă thành một người ‚’t ư tưởng tự do ‚’nh ư ông, đă tạm quên cái nhiệm vụ công dân Ba Lan mà hướng tâm về khoa học của ông; c̣n ông khi cưới xong, cũng bắt đầu học tiếng Ba Lan và coi Varsovie là quê hương thứ nh́ của ḿnh. Cả hai đều nhắm chung một mục đích: nghiên cứu và phát minh.

Mùa hè năm đó, hai ông bà sống những ngày thần tiên. Họ cưỡi xe máy đi dạo khắp miền phụ cận Ba Lê; tới đâu ăn đó, khi th́ chia nhau những miến bánh, nhữ trái lê dưới bóng cây rừng thưa; khi th́ gỉai khát trong những quán trọ miền quê, bên một con đường thiên lư. Họ thơ thẩn dạo mát trên đồi, vừa đi vừa suy nghĩ về những nghiên cứu kghoa học.

Họ mướn một căn ba pḥng. Đồ đạc sơ sài v́ họ không có tiền để mướn người ở, cũng không có th́ giờ đễ dọn dẹp. Trong pḥng chính chỉ kê mỗi một cái bàn bằng gỗ tạp không sơn với hai chiếc ghế ở hai đầu. Hai ông bà đă quyết định là không tiếp khách mà cũng chẳng giao du với ai. Ông lúc đó đă đậu tiến sĩ vật lư và dạy ở trường Vật lư, lương được năm trăm quan một tháng, vừa đủ chi tiêu. Bà học thạc sĩ để hy vọng sau này cũng dạy học giúp ông.

Những bà nội trợ nào phàn nàn rằng tối tăm mặt mũi về công việc nhà cửa, nên coi chương tŕnh làm việc mỗi ngày của bà Marie Curie: nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm tám giờ, lo việc nhà hai hay ba giờ, rồi lại học thi hạc sĩ nữa. Có khi hai ba giờ khuya bà chưa nghỉ: c̣n phải tín số chi tiêu, vá áo cho chồng c̣n coi sách làm bếp. Không thể bắt chồng ăn toàn là bánh ḿ với bơ và trái cây được. Vả lại c̣n phải giữ tiếng với họ hàng bên chồng chứ. Dù đậu cử nhân hay thạc sĩ cũng mặc, một phụ nữ Ba Lan không thể ‚’ đoàng’’về bếp núc được. Mà cái môn nấu nướng cũng khó khăn, bí mật như môn hoá học chứ kém ǵ; phải đổ bao nhiêu nước, thêm bao nhiêu muối, luộc bao phút ? Bà ghi hết thảy những thành công và thất bại của bà, y như ghi nghững thí nghiệm khoa học vậy. Điều cần nhất là làm sao cho đỡ tốn th́ giờ : bà bèn sáng chế những món ăn, những cách nấu không tốn công, để thức ăn tự nó chín trong khi bà lại trường. Vừa coi nhà, vừa đi học như vậy, mà năm sau mà thi thạc sỹ, đậu thủ khoa. Pierre Curie đeo đuổi bà một năm rưỡi chứ có đeo đuổi mười lăm năm cũng là đáng.

Năm 1897, bà sanh con gái đầu, em Irène – sau này với chồng là Frédéric Joliot cũng được giải thưởng Nobel – và ba tháng sau công bố kết quả những thí nghiệm của khoa học của bà.

Từ đó, bà vừa nuôi con, vừa nghiên cứu với chồng đẻ phát minh chất ra đi (quang chất ).

Sau khi nhà bác học Roentgen đă phát minh được quang tuyến, nhiều người tiếp tục khảo cứu về các chất có huỳnh quang, và năm 1896, ông Henri Becquerel nhận thấy rằng chất muối ‚’urane ‚’ tự nó phát ra những tuyến lạ lùng, cả những khi trông tối. Hiện tượng phóng xạ đó, chưa ai biết nguyên do ở đâu. Hai ông bà Curie cùng nhau nghiên cứu nó.

Trước hết phải t́m một pḥng thí nghiệm. Ông xin được một pḥng bỏ không, ở trường vật lư. Pḥng thiếu mọi tiện nghi. Mặc. Hai ông bà bắt tay vào việc liền và vài tuần lễ sau, bà t́m được cách đo lượng phóng xạ của uranium. Rồi bà nghiên cứu tất cả những chất hóa học để xem có chất nào cũng phóng xạ như uranium nữa không, và bà thấy được một chất nữa, chất thorium.

Bà đặt ra giả thuyết này là những chất chư uranium, thorium sở dỉ phóng xạ v́ nó chứa một chất mới, có tính cách phóng xạ mà từ trước chưa ai biết. Bà quyết tâm t́m ra được chất đó. Hai ông bà dùng chất pechblende - một khoáng chất urane, phóng xạ rất mạnh-để nghiên cứu, phân tích, loại lần lần những phần tử không phóng xạ, như một viên cảnh sát đi lùng từng nhà một để bắt một tội nhân trốn tránh vậy. Kết quả, là hai ông bà thấy chất phóng xạ trốn ở trong hai phân tử của chất pechblende. Như vậy là đă kiếm được hai chất mới. Ḷng nhớ tổ quốc vẫn dào dạt, bà đề nghị với ông gọi một trong hai chất đó là polonium(Pologne là tên tổ quốc của bà), c̣n chất kia gọi radium. Cuối năm 1898, ông bà tuyên bố kết quả ở Hàn lâm viện khoa học.


Nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Tiếp theo là bốn năm lao tâm, lao lực nữa, v́ muốn cho thế giới nhận thuyết mới mẻ, táo bạo đó, ông bà phải làm cách nào tách riêng được chất radium ra - chất này phóng xạ hơn chất polonium - rồi tính được trọng lượng nguyên tử của nó, tóm lại là phải cho thiên hạ thấy được radium nguyên chất. Muốn vậy phải giải quyếe được ba vấn đề này :

- Kiếm cho được thật nhiều chất pechblende để nấu,
- Kiếm được chổ nấu,
- Kiếm được tiền chi tiêu vào việc nghiên cứu đó.

Vấn đề thứ nhất, ông bà giải quyết được dễ dàng. Chất pechblende tuy đắt, nhưng cặn của nó th́ rẻ mạt, mà dùng để nấu ra radium được. Một ông bạn ở Áo sẵn sàng gởi tặng ông bà hàng tấn cặn đó.

Về vắn đề thứ nh́, ông xin trường Đại học Sorbonne một chỗ để thí nghiệm. Người ta từ chối, ông đành xin một cái kho bỏ không ở trường Vật lí. Cửa không có, mái th́ dột, sàn không lát gạch mà chỉ có một lớp hắt ín,c̣n đồ đạc th́ chỉ có vài cái bàn, một cái bản đen và một lọ bằng gang. Nhưng thôi, cũng tạm được, có chỗ để thí nghiệm c̣n hơn là không.

C̣n vấn đề thứ ba th́ không nhờ cậy được ai hết. Ông bà đành bóp bụng, giảm mọi chi tiêu trong gia đ́nh để mua dụng cụ, vật liệu thí nghiệm.

Và ở trong cái kho tồi tàn, ẩm thấp, lạnh lẽo đó, ông bà đă nấu hàng tấn cặn pechblende; ông th́ thí nghiệm, bà th́ coi ḷ. Tay bà chai lên v́ xúc than, xúc cạn pechblende; bà sặc sụa v́ khói, v́ bụi, mùa hè th́ chịu nóng như thiêu mà mùa đông th́ phải nép trong một góc để tránh dột hoặc gió. Quả là
một đời sống ‚’trái với thiên nhiên’’ như ông đă tính từ hồi hai mươi tuổi. Nhưng ông bà thấy đời sống trái thiên nhiên đó thích thú vô cùng, và sau này, nhắc lại kỉ niệm xưa, bà viết : ‚’Lúc ấy chúng tôi sống như trong một giấc mộng’’. Thỉnh thoảng ông lại ngừng tay hỏi bà:

- Ḿnh, ḿnh thử đoán chất radium sẽ nấu được, màu sắc ra sao.

Hoặc bà hỏi ông :

- Ḿnh, em đố ḿnh biết nó sẽ nặng hay nhẹ đấy?

Rồi ông bà nh́n nhau cười.

Tháng tháng trôi qua mà chất radium vẫn chưa xuất hiện. Rồi hết một năm, hai năm, ba năm. Hồi trẻ bà có lần nói:’’ Đời sống không phải là dễ dàng. Phải kiên nhẫn, thứ nhất là phải tự tín. Phải tin rằng ḿnh có khiếu để làm một cái ǵ, và cái đó, phải làm cho kỳ được’’. Th́ bây giờ bà thực hành đúng lời đó. Bà tin rằng chất radium phải xuất hiện không thể khác được. Cho nên bà kiên nhẫn nấu, dù có kḥm lưng, mờ mắt, lao phổi.(Bà đâu có quên rằng thân mẫu mất về bệnh đó) th́ cũng cứ nấu ! Bà nấu hàng tấn cặn pechblende, hết đống này đến đống khác, và kết quả là sau bốn mươi lăm tháng, bà đă nấu ra được chất radium nguyên chất. Bạn đă sắc thuốc bắc lần nào chưa nhỉ? Sắc một thang giải cảm mất độ nửa giờ, bạn thấy sốt ruột; canh một thang thuốc bổ mất một hai giờ, bạn bực ḿnh muốn đổ bớt thuốc đi cho nó mau cạn? Vậy xin bạn tưởng tượng cho công phu nấu cạn pechblende trong bốn mươi lăm tháng của bà. Và bạn có biết bà nấu ra được bao nhiêu radium không ?Chỉ có một phần mười gam. Ông bà vội vàng đo trọng lượng nguyên tử của chất đó, được con số 225.

Đêm hôm đó, khoảng chín giờ rưỡi, đợi cô Irène ngủ rồi, bà rủ ông lại để ngắm chất radium mới nấu được. Vừa mới mở cửa kho ra, bà kêu lên:

-Ḿnh ngó ḱa.

Ở trong bống tối một màu xanh xanh dịu dịu. Hai ông bà đứng trân nh́n một hồi lâu. Ông khẽ vuốt mái tóc bà và nói:’’Chât radium của chúng ta tự nó phát ra ánh sáng’’. Kẻ nào t́m ra được dạ minh châu chắc cũng không vui bằng cặp vợ chồng trẻ tối đêm đó.


Tin đó đưa ra, các nhà bác học Anh, Đức, Ư... đều ngưỡng mộ ông bà vào bực kỳ tài, duy có chính phủ Pháp là cơ hồ không thèm lưu ư tới. Ông không có tham vọng ǵ cả, chỉ ước ao được một chân giáo sư đại học và một pḥng thí nghiệm có đủ dụng cụ thôi; nhưng chính phủ không cho, lấy lí rằng những phát minh của ông không thuộc phạm vi vật lí hóa! Thành thử lương ông vẫn năm trăm quan một tháng, không đủ tiêu v́ nhà đă thêm trẻ.

Măi đến khi chính phủ Thụy Sĩ, trọng tài ông, mời cả hai ông bà qua dạy trường đại học Genève, mà ông từ chối, v́ muốn ở Ba Lê tiếp tục nghiên cứu về chất radium, chính phủ Pháp mới chịu nhận giá trị của ông, mời ông dạy lớp Vật lí Hoá-Tự nhiên ở trường Sorbonne và mời bà làm giáo sư ở trường Cao đẳng Nữ sư phạm Sèvres. Nhưng pḥng thí nghiệm th́ vẫn không cho.

Năm 1902, nhiều bạn thân thúc ông xin ứng cử vào Hàn lâm viện Khoa học. Ông không chịu, cho cái thủ tục bắt các ứng cử viên phải đi chào các ông hàn trong viện là nhục nhă, vô nghĩa. Nhưng nể ḷng bạn, ông đành ra ứng cử, và kết quả là ông thua. Phần đông các cụ hàn nhà ta không ưa ứng cử viên’’khả ố’’ không chịu khom lưng đó, nên bầu ông Amagat, một kẻ bất tài, vô danh, chỉ đáng khen ở chỗ lưng mềm.

Ít lâu sau, một vị bộ tưởng đề nghị thưởng ông Bắc đẩu bội tinh. Ông cương quyết từ chối:

"Tôi xin đa tạ ông bộ trưởng và thưa ông rằng tôi không thấy cần có huy chương mà chỉ cần có một pḥng thí nghiệm thôi".

Từ đó hai ông bà hết trông cậy vào sự giúp đỡ của chính phủ, lại tự lực tiếp tục thí nghiệm bằng những phương tiện rất thiếu thốn. Có lần ông làm việc quá mà muốn đau, chán nản, nói với bà:

-Cuộc đời chúng ta đă lựa, vậy mà khó nhọc quá chứ!

Đă mấy tháng nay, ông lo sẽ chết sớm. Bà an ủi:

-Ḿnh... rán vui lên, ḿnh.

Nhưng rồi, không nén được ḷng, bà nghẹn ngào nói tiếp:

-Nếu trời bắt tội một đúa trong chúng ta chết trước... th́ kẻ c̣n lại cũng không sống được đâu, ḿnh nhỉ.

Ông lắc đầu, cương quyết:

-Em lầm rồi. Dù sao th́ sao, dù chỉ c̣n là cái xác không hồn th́ chúng ta cũng vẫn phải làm việc.

Và càng thiếu sự nâng đỡ, ông bà càng làm việc mạnh. Từ năm 1899 đến năm 1904, ông bà đă công bố được ba mươi hai nghiên cứu về khoa học. Chất radium được dùng để chữa vài loại ung thư và bắt đầu được các nhà kỹ nghệ đ̣i hỏi. Khi đă nấu được một gam radium, ông muốn công bố cách thứ chế tạo cho cả thế giới biết, chứ không giữ riêng bằng cấp sáng chế, nhưng c̣n ḍ ư bà đă:

-Đời chúng ta vất vả mà chúng ta cần có một pḥng thí nghiệm đàng hoàng. Rồi c̣n tương lai của con cái nữa. Em nghĩ sao ? Nên giữ quyền sáng chế hay không ?

Bà do dự, đáp:

-Giữ quyền đó cho riêng ḿnh là trái với tinh thần khoa học. Em nghĩ sự phát minh đó phải để cho cả nhân loại hưởng chung.

Và ông vui vẻ công bố liền cách chế tạo cho các kỹ sư ngoại quốc.


Lúc đó, danh tiếng ông bà dậy lên như sóng. Các quốc gia tranh nhau đón tiếp ông bà. Trước hết là Anh. Năm 1903 Viện Hoàng gia ở London xôn xao muốn được coi mặt những người đă khai sanh cho chất radium. Ông bà phải dự các tiệc danh dự, ông với bộ đồ đen thường ngày, bà cũng với chiếc áo sẫm thường ngày mà chung quanh toàn những nhà quí phái y phục sang trọng, vàng son rực rỡ.

Khi tan tiệc, về pḥng, bà bảo ông:

-Em không ngờ rằng ở đời có những châu ngọc đẹp như vậy.

Ông mỉm cười :

-Ḿnh thử đoán xem trong bữa tiệc anh nghĩ tới ǵ?...Anh tín phỏng giá tiền của tất cả những vàng ngọc đó đủ để cất được biết bao những pḥng thí nghiệm.

Về tới Ba Lê, ông nhận ngay được một chiếc huy chương bằng vàng ở Luân Đôn gởi qua. Không biết dùng làm ǵ, ông cho cô Irène chơi. Bạn bè tới mừng và đ̣i coi, ông chỉ cô Irène bảo:

-Cháu nó thích đồng xu mới lớn đó lắm!

Rồi tới Thụy Điển tặng ông bà một nửa giải thưởng Nobel về Vật lí, nửa kia về ông Henri Becquerel, v́ cả ba đều có công phát minh về tánh phóng xạ.

Bạn đă biết giải thưởng Nobel giá trị ra sao chứ? Đó là một giải thưởng quốc tế khoản 10 tỉ quan mỗi năm phát một lần cho những văn nhân và nhà bác học nào có công lớn lao với nhân loại.(1)
Nếu bạn được giải thưởng th́ bạn sẽ làm vẻ vang cho cả dân tộc Việt Nam, và cả cho châu Á nữa v́ từ hồi giải thưởng thành lập-năm 1896-đến nay, ở châu Á mới có bốn người được nhận nó, tức thi hào Tagore ở Ấn Độ, nhà bác học Hideki Yukawa ở Nhật và mới năm ngoái đây, hai thanh niên Trung Hoa: Tchen Ning Lang với Tsung Lao Lee mà thế giới ngưỡng mộ là tài ngang Einstein. Vậy mà cả hai ông bà Curie được giải thưởng. Vinh dự đó chưa từng thấy trong giới khoa học. Nhất là sau này bà lại được thêm một giải thưởng Nobel về Hóa học. Rồi cô Irène và chồng là Joliot nối nghiệp cha mẹ, chiếm một giải nữa. Gia đ́nh Curie quả đă chiếm tối cao kỷ lục về giải đó.

Nhưng từ khi được giải thưởng, ông bà chỉ thấy bực ḿnh hơi là vui. Trong một bức thư cho người anh, bà viết:

"Thư từ gởi tới ngập cả nhà, rồi th́ các nhà nhiếp ảnh, các kư giả tràn vào. Chúng em muốn độn thổ để được yên ổn".

Đúnh như Einstein đă nói“danh vọng không làm cho người ta sướng, mà nhiều danh vọng quá c̣n làm cho ông bà quạu:

"Lúc nào nhà cũng ồn ồn lên. Người ta kiếm mọi cách cản trở công việc của vợ chồng em. Bây giờ em cương quyết không tiếp ai hết -Vậy mà cũng không được yên.
Đời chúng em đă hoàn toàn tiêu ma v́ danh vọng".

Hể được ngày nào rảnh là ông bà phải bỏ nhà, trốn đi, đạp xe máy về miền quê, đổi tên họ để được ngủ yên trong quán trọ. Nhưng các kư giả vẫn theo ḍ, và một lần một kư giả Mỹ vượt Đại tây dương qua, nhận được mặt bà ở ngưỡng cửa một gia đ́nh đánh cá nọ, vội chạy lại phỏng vấn. Bà đắc dĩ phải đáp, đến khi kư giả đó hỏi về đời tư của bà, bà cắt ngang câu chuyện:

-Về khoa học, chúng tôi chỉ lưu tâm đến vật chứ không để ư đến người.

Thực vậy, bà không để ư tối ai hết, không phải là bà kêu căng mà là v́ công việc đó vô ích. Khi người ta là thiên tài đem cả tâm hồn ra phụng sự nhân loại th́ người ta không cần qui tắc Đắc nhân tâm của xă hội. Tuy nhiên bà vẫn tỏ ra lịch thiệp, nhă nhặn.

Một lần Tổng thống Loubet mời ông bà dự tiệc ở điện Elysée. Một bà quí phái lại gần bà, hỏi :
Bà muốn tôi giới thiệu với đức vua Hi Lạp không ? Bà nhỏ nhẹ đáp :

-Thưa, tôi không thấy có ích ǵ ạ.

Rồi nhận ra được là bà Tổng Thống Loubet, Marie Curie ngượng ngùng vội chữa;

-Dạ... tất nhiên rồi ạ, tôi xin tuân ư bà :

Chính phủ Pháp tới lúc đó mới chịu tặng ông một ghế giáo sư đại học thực thụ; c̣n pḥng thí nghiệm ông xin từ tám năm trước để có đủ phương tiện phụng sự cho quốc gia và nhân loại, th́ chính phủ chưa xét tới. Và đến năm 1905, ông chịu ứng cử vào hàn lâm viện khoa học một lần nữa, th́ chỉ vừa đủ thăm để được lựa, v́ có tới hai mươi cụ hàn bỏ thăm cho một người vô danh nào đó. Năm ấy ông đă bốn mươi sáu tuổi và đă hi sinh cho khoa học trong một phần tư thế kỷ.


Pierre - Marie - Xe đạp

Lễ Phục sinh năm 1906, ông bà nhỉ ngơi ở miền quê ít bữa, rồi ông trở lại Ba Lê trước, ôm theo một bó hoa để chưng trong pḥng làm việc. Hôm sau bà dắt hai con về, thấy ông đứng đợi ở cửa sổ.

Ngày 19 tháng tư năm 1906, ăn bữa trưa xong, ông xách dù lại đường Dauphine. Xe cộ đông, ông muốn băng qua đường, bỗng trượt chân. Có tiếng người kêu : ‚’Ngưng lại, ngưng lại ‚’. Người đánh xe gh́ dây cương. Nhưng đă quá trể. Một bánh xe sau của chiếc xe chở nặng sáu tấn, đụng phải một vật ǵ rồi nghiền nát ra. Một đầu người : bộ óc của Pierre Curie.

Thiên hạ bu lại, hai người mang ông tới một tiệm thuốc rồi tới ti cảnh sát. Người ta xét giấy tờ của ông. Nghe tới tên ông, quần chúng phẫn nộ muốn hành hung người đánh xe.

Khi thân phụ ông hay tin, cụ lặp đi lặp lại câu :

-Nó lại mơ mộng cái ǵ nữa !

Sáu giờ chiều, bà Marie về, vẫn vui vẻ, chưa hay biết ǵ cả, tới cửa thấy có ǵ khác thường. Nghe ông khoa trưởng đại học Paul Appell kể lại tai nạn, bà đứng trân trân, như mất hồn, không khóc, cũng không than thở. Một hồi lâu bà mới mấp máy môi, hỏi :

Anh Pierre mất rồi à ?... Mất thật rồi à ?

Trời tối, người ta chở di vật cùng thây của ông về. Chiếc đồng hồ vẫn c̣n đập, miếng kính không hề bể. Bà ôm thây ông, không muốn rời ra nữa. Người nhà phải kéo bà đi.

Đám tang rất đơn giản. Bà từ chối mọi sự phúng viếng của nhà cầm quyền và quốc dân.

Trong mấy tuần lễ sau, bà thẩn thờ, tâm hồn như theo người quá cố, không nói năng, làm lụng ǵ hết.

Chính phủ yêu cầu bà thay chân giáo sư Đại học cho ông. Bà dững dưng, đáp : " Để tôi gắng sức xem’’. Rồi bà nhớ lời nói của ông :’’Dù sao th́ sao, dù chỉ c̣n là cái xác không hồn th́ chúng ta cũng phải làm việc " và quyết định tiếp tục sự nghiệp của chồng. Ngày tụ trường năm đó, sinh viên cùng những người trong mọi giới trí thức xúm lại ở trường đại học Sorbonne để nghe nữ giáo sư đầu tiên của trường giảng bài. Theo lệ, hễ một giáo sư nào thay chân giáo sư khác th́ buổi đầu, phải có ít lời cảm ơn ông bộ trưởng, ông khoa trưởng và ca tụng người ḿnh thế chân.

Cửa giảng đường mở, bà tiếng lại ghế. Tiếng vỗ tay vang dậy. Bà cúi đầu chào, đợi cho pḥng yên lặng rồi nói :

"Khi người ta xét những tiếng bộ về Vật lí trong mười năm nay… "

Bà đă lặp đúng lời giảng cuối cùng của ông mấy tháng trước. Thính giả đều cảm động.

Thực vậy, dù chỉ là cái xác không hồn th́ bà vẫn phải làm việc, mà bà c̣n làm việc gấp hai trước, cũng làm thay cả phần của chồng nữa.

Ở nhà, bà săn sóc sự học của con. Bà muốn cho cô Irène học rất ít nhưng rất kỹ lưỡng. Bà gom độ một chục trẻ, mời những giáo sư danh tiếng lại dạy mỗi người một môn.

Đích thân bà dạy môn Vật lí cho các em đó mỗi chiều thứ năm, tập cho chúng thích khoa học, chịu gắng sức, làm việc có phương pháp. Một phần nhờ cách học tập đó mà sau này cô Irène thành một nhà bác học như bạn đă biết.

Ở trường, bà dạy tăng giờ lên, vừa thay chồng dạy trường ở Đại học đường Sorbonne, vừa tiếp tục dạy ở trường Cao đẳng sư phạm. Bà lại c̣n điều khiển pḥng thí nghiệm.

Bận việc như vậy mà trong bốn năm, bà vẫn có th́ giờ soạn đươc một bộ về Tính phóng xạ dầy non một ngàn trang, gần bằng bộ Chiến tranh và Hoà b́nh của Tolstoi; ấy là chưa kể công sắp đặt lại, sửa chữa những tác phẩm của chồng mà bà gom lại thành một tập sáu trăm trang. Sức làm việc của bà đă kinh thiêng chưa ?Giới khoa học ở mọi nơi đều hướng cả về bà. Những bằng cấp tấn sĩ danh dự, những giấy chứng chỉ hội viện Hàn lâm viện, rồi những huy chương chất đầy các hộc tủ.

Chính phủ Pháp tặng bà Bắc đẩu bội tinh, bà từ chối. Cũng do bạn bè thúc, bà phải ứng cử vô Hàn lâm viện khoa học, để người khỏi trách ḿnh làm cao. Nhưng trong viện chia làm hai phe, một phe không ưa bà, và rốt cuộc bà thiếu một thăm.

Tức th́, các nhà bác học Thụy Điển như muốn sửa lại sự bất công đó, tặng bà giải thưởng Nobel về hóa học (1911). Để vớt lại danh dự, chính phủ Pháp cho cất Viện Radium ở đường Pierre Curie, mời bà điều khiển. Ngày khánh thành viện đó là một trong những ngày vui nhất của bà, v́ thấy cái mộng của chồng đă thực hiện được. Nhưng vừa cất xong, th́ đại chiến bùng nổ.

Bà xin nhập ngũ, tuy là để giúp Pháp mà cũng là để gián tiếp giúp tổ quốc v́ nếu đồng minh thắng th́ Ba Lan tất được trả lại tự do.

Bà tổ chức một trạm quang tuyến lưu động trên khắp các mặt trận để trị bệnh trong quân đội. Trạm gồm một chiếc xe camion chứa đủ dụng cụ về quang tuyến, nhân viên chỉ có người cầm lái và bà. Khi nào người cầm lái mắc việc hoặc đau th́ đích thân bà lái lấy. Trời mưa hay lạnh cũng mạc, bà hăng hái nhảy xuống đường dể sửa xe lấy, gỡ bánh hay chùi máy, rồi bà đích thân khuân vác đồ đặc. Cũng ăn bằng gàu men, cũng ngũ dưới lều vải, y như lính hạn nh́.

Chiến tranh kết liễu. Nước Ba Lan, sau nửa thế kỷ nô lệ, lại hiện trên bản đồ thế giới. Bà mừng vô cùng : bổn phận công dân của bà nay đă làm tṛn được.

Nhưng sức bà đă suy – bà đă ngoài ngũ tuần và đă lao lực trên mười năm, từ hồi ông mất – mà số tiền dành dụm được th́ tiêu tan gần hết v́ sự phá giá của đồng quân. Bà lo lắng không biết c̣n đủ sức nuôi con không.

Viên chủ nhiệm một tờ báo ở Nữu Ước, bà William Brown Meloney, suốt trong mấy năm, t́m mọi cách để tiếp xúc với Marie Curie mà không được. Sau bà ta phải cậy một nhà bác học giới thiệu, được Marie Curie tiếp ở Viện Radium.

Quen thấy những pḥng thí nghiệm đồ sộ, tối tân ở Mỹ, bà ta ái ngại khi thấy những dụng cụ thô sơ của viện, bèn hỏi :

-Thưa bà, bà có cần mua sắm thêm cái ǵ không?

Marie Curie đáp :

-Tôi muốn có gam radium để nghiên cứu, nhưng không thể mua được, v́ giá đắt quá.

Về Mỹ, bà Meloney nảy ra một ư là quyên tiền để tặng Marie Curie một gam radium. Bà ta xin mười nhà tỉ phú mỗi nhà giúp cho một vạn Mỹ kim, nhưng chỉ có ba nhà chịu quyên. Bà bèn hô hào hết thảy phụ nữ Mỹ nghèo cũng như giàu, mỗi người giúp một chút, và không đầy một năm sau, bà báo tin cho Marie Curie : ‚’Thưa bà, tiền đă kiếm được, gam radium là của bà đấy ‚’. Rồi dân tộc Mỹ mời Marie qua thăm xứ họ để họ được tiếp rước. Bà do dự, ngại đám đông, ngại tiệc tùng. Bà Meloney rán thuyết phục, bà phải nhận lời, năm 1921 đáp tàu qua Nữu Ước.

Quần chúng hoan hô nhiệt liệt, báo chí in chữ lớn ở trang đầu để ca tụng nhà ‚’ nữ bác học ăn bận nghèo nàn’’.

Tại Bạch Ốc, Tổng thống Harding trao cho bà một hộp bằng ch́ chứa một gam radium tượng trưng, c̣n miến radium thực th́ để ở xưởng, v́ sức phóng xạ của nó rất nguy hiểm. Bà nhận với điều kiện là trên giấy tặng không đề tên bà mà để tên pḥng thí nghiệm của bà, như vậy cho mọi người thấy rằng gam radium đó không phải là tặng riêng bà.

Rồi bà đi thăm các trường Đại học, các viện thí nghiệm. Hàng núi bông chất ở dưới chân bà, hàng chồng điện tín nằm trên bàn bà.

Sau lần viễn du đó bà tự thấy không có quyền được giam minh trong pḥng thí nghiệm nữa ! Danh bà lớn quá, khắp giới khoa học ngưỡng mộ th́ bà phải đi xứ này xứ khác để khuyến khích sự t́m ṭi, khảo cứu. Hết thảy các nước Âu châu đều tranh nhau đón bà tới diễn thuyết và dự những hội nghị khoa học. Ở Ban Lan dân chúng, kẻ góp công, người góp của, dựng lên một viện radium và đặt tên là viện Marie Sklodowska Curie. Viện cất xong, nhưng thiếu tiền để mua một gam radium. Bà lại hướng về Mỹ, nhờ bà Meloney giúp sức và dân chúng Mỹ lại tặng bà một gam radium nữa.

C̣n ở Pháp ? Năm 1922, ba mươi lăm ông Hàn lâm viện Y học kư tên trên một bản thỉnh nguyện xin viện bỏ thủ tục, bầu cử bà vào viện mà không buộc bà phải ra ứng cử. Toàn thể viện hoan hô ư kiến đó, làm cho các ông Hàn ở Hàn lâm viện Khoa học bẽ mặt.

Năm sau, chính phủ kư một đạo luật tặng bà một phần thưởng quốc gia, một số lợi nhuận là bốn chục ngàn quan mỗi năm, có thể chuyển qua hai người con của bà là Irène và Eve Curie.

Năm sáu mươi lăm tuổi, sức đă suy nhiều mà bà vẫn làm việc mười hai hay mười bốn giờ một ngày. Nhiều người khuyên bà, bà chịu nghỉ ngơi một chút, kiếm một tập thơ hay một tiểu thuyết để đọc, nhưng chỉ độ nửa giờ, lại bỏ sách xuống, cầm cây viết ghi bài tính những thí nghiệm. Có đêm, hai ba giờ sáng bà c̣n thức. Trong mười lăm năm, từ hồi đại chiến thứ nhất kết liễu, bà công bố được ba mươi mốt công tŕnh nghiên cứu, lại viết một cuốn tiểu sữ cho chồng, tức cuốn Pierre Curie, do nhà Denoel xuất bản.

Năm 1920, hai con mắt của bà đục lần lần, trông cái ǵ cũng thấy mờ mờ như sau một lớp sương. Bác sĩ lo sẽ thành bệnh đui. Bà cương quyết chống với bệnh và dặn người nhà không cho ai biết, để báo chí khỏi loan tin. Tới nhà thương bà mượn một tên giả là Carré và buộc bác sĩ phải gọi bằng tên đó. Đi đâu cũng phải có người dắt vậy mà cũng không bỏ một buổi nào ở pḥng thí nghiệm. Bà phải dùng kính hiển vi để nh́n và những cộng sự viên thân tín phải viết chữ cho thật lớn để bà đọc. Các nhà giải phẩu mổ mắt bà bốn lần, đến năm 1930, bà qua được tai nạn.

Có lần bà đă thất vọng, muốn về quê nghỉ ngơi, làm vường, nhưng không được, cả ngàn công việc ở Viện níu chặt bà lại, bắt bà phải làm việc tới khi chết. Những nhà hảo tâm ở khắp nơi gởi tiền về biếu Viện, như ông Rochefeller, ông Henri de Rostchild, hai anh em ông Lagard. Cảm động nhất là một người nào đó đă tặng Viện ba triệu bốn trăm ngàn quan mà t́m đủ cách để giấu tên. Rồi biết bao nhà bác học trẻ tuổi ở thế giới liên lạc với bà, nhờ bà chỉ bảo, dắt dẫn. Như vậy th́ làm sao mà về vườn được, mặc dù tuổi đă trên lục tuần. Biết rằng ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa, và lại càng lo cho tương lai của Viện, bà thường than thở với người thân : "T ôi chết đi không biết viện sẽ ra sao". V́ đă có ai thay thế bà được đâu; sự hiểu biết, kinh nghiệm của bà về tính phóng xạ đă tới mức mà c̣n phải lâu lắm mới có người theo kịp.

Cuối năm 1933, chiếu điện thấy có một cục sạn lớn ở trong túi mật, bà bắt buộc phải nghỉ ít lâu. Nhưng chưa kịp th́ bà đă ngọa bệnh, lên cơn sốt hoài. Mới đầu bà không chịu đi bác sĩ, bảo : "Làm phiền các ông ấy quá, trả tiền th́ các ông ấy không chịu nhận". Sao mà bà lẩn thẩn đến bực đó ! Và vẫn mỗi ngày hai buổi tới Viện Radium.

Sức đă quá suy bà phải nằm liệt giường. Các bác sĩ ṃ bệnh không ra : Người th́ cho là bệnh cúm, người th́ bảo là đau cuống phổi. Rội kiếng hai lần, có kẻ ngờ là đau phổi : hồi xưa thân mẫu bà chết v́ bệnh đó ư ? Nóng lên tới bốn mươi độ. Hồng huyết cầu mất đi một cách rất mau. Vẫn không ai biết là bệnh ǵ. Trong cơn mê sảng, bà nhắc tới tên radium và Mésotherium.

Sau cùng khi bà mất rồi (tháng bảy năm 1934) các y sĩ mới đoán được bệnh : bà bị chất phóng xạ hại. Đúng như lời giáo sư Regaud, bà là nạn nhân của những chất mà chính ông bà đă t́m ra được.

Theo lời trối trăng của bà, đám tang rất đơn giản, như đám tang của ông. Bà yên nghỉ chung trong một huyệt với ông, và dưới hai hàng chữ :

Pierre Curie
1859 -1906


người ta khắc thêm hai hàng này nữa :

Marie Curie – Sklodowska.

1867 - 1934



(1) Có 5 giải : Vật lí, Hóa học, Y học, Văn chương và Hoà b́nh.

(Em Út xin phép được tặng cho những ai đă và đang học trong trường học "mang tên là Marie Curie).

Bạch tuyết
France, Paris 9.2005
(Cùng một tác gỉa )

Trích từ GƯƠNG HI SINH
(của NGUYỄN HIẾN LÊ )
do nhà xuất bản văn hóa thông tin 43 L̉ ĐÚC – HÀ NỘI - VIỆT NAM


 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>