Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này

Danh nhân

 


  
John Logie BAIRD

 
 

NGƯỜI ĐĂ PHÁT MINH RA CHIẾC GƯƠNG THẦN


có lẽ truyện John Logie Baird phát minh ra máy vô tuyến truyền h́nh là truyện lạ lùng nhất trong lịch sử khoa học. Ai ngờ đâu con người nghèo nàn lại bệnh tật, trôi nổi khắp nơi, có hồi bán mứt, bán vớ , kem đánh giầy, xà bông, lần nào cũng thất bại, mà sau cùng lại thành công trong việc giải một bài toán cực kỳ rắc rối, làm nát óc những nhà bác học, những nhà kỹ thuật học rộng gấp năm ông , đủ phương tiện gắp mười ông. Bài toán đó như sau : "Làm sao truyền được h́nh ảnh đi xa hàng trăm, hàng ngàn cây số bằng vô tuyến điện? Nói cách khác làm sao chế tạo được máy vô tuyến truyền h́nh để chúng ta có được những cặp thiên lư nhăn như các vị tiên thánh trong truyện Phong thần ?"

Cặp thiên lư nhăn đó, người Âu và Mỹ đă có , nhờ máy vô tuyến truyền h́nh. Máy đó, giá từ 150.000 tới 200.000 quan, bề ngoài tựa như máy thu thanh, nhưng có một trăm gương thần , nh́n vào đó bạn sẽ thấy những việc đương xảy ra ở xa.

Người Mỹ thích máy vô tuyến truyền h́nh lắm và nhiều cặp vợ chồng trẻ ở sỏ, ở hăng về, là vặn ngay máy lên nh́n, vừa thay quần áo vừa nh́n, rồi cứ nằm dài trên giường mà nh́n cho tới khi đi ngủ mới thôi, khách khứa nhất định không tiếp, sách báo nhất định không đọc, đến nỗi các nhà sản xuất phim hát bóng ở Hollywood phải rung động cả và các nhà giáo dục đạo mạo phải la lên rằng "t́nh h́nh văn hoá thế này th́ nguy mất".

Quả thực, từ xưa tới nay, chưa có nhà phát minh nào làm thay đổi đời sống con người bằng John Logie Baird.

Ông sanh năm 1888 tại Dumbartonshire (Anh), trên cửa con sông thơ mộng Garloch, trong một làng chài lưới. Thân phụ ông là một đạo sĩ đạo mạo, cưng ông lắm v́ ông là con út, và thông minh.

Cậu John Logie rất yếu ớt, hay đau vặt, cho nên buổi học buổi nghỉ, rất sợ thể thao mà rất thích máy móc.

Năm mười hai tuổi, cậu và bốn người bạn đă tự đặt một đường điện thoại nối các gác xép của nhau để chơi. Một đêm đông, dây điện đứt, ḷng tḥng xuống đường, quấn vào cổ một người đánh xe, làm người này té. Sáng hôm sau nạn nhân lại sở Bưu Điện đ̣i bồi thường. Viên thanh tra Bưu Điện lại tận chỗ xem xét mới biết tṛ tinh nghịch của các cậu. Giáo sĩ Baird rầy con dữ và bắt gỡ đường điện thoại.

Nhưng cậu không thất vọng, bày tṛ chơi khác. Cậu Chế tạo một máy phát điện nhỏ chạy bằng sức nước ở dưới sông . Nhờ vậy nhà cậu là nhà đầu tiên có đèn điện ở trong miền. Ông Baird lần này không rầy cậu mà c̣n lấy làm vinh dự.

Ít năm sau, Cậu ham mê chụp h́nh, chế tạo lấy được một máy phóng đại và tài t́nh hơn nữa, khéo tính toán sắp đặt ra sao mà tự chụp lấy cho ḿnh được trong khi ngủ say.

Năm mười bảy tuổi cậu vô trường kỹ thuật ở Glasgow để học ngành kỹ sư điện. Cậu th́ đậu cao, lên trường Đại học Glasgow, vừa học vừa t́m hiểu một phát minh mới. Nhưng trường không cho phép sinh viên thí nghiệm, cậu phải thí nghiệm ở nhà bằng những dụng cụ thô sơ. Cậu dùng chất sélénium, chế được một kiểu chuông cứ có ánh sáng mặt trời chiếu vào là reo. Do đó cậu nảy ra ư dùng phương pháp biến hóa ánh sáng thành dấu hiệu điện để truyền h́nh ảnh đi xa.

Đại chiến thứ nhất làm John phải ngưng học hành và t́m ṭi. Chàng nhập ngũ, nhưng v́ ốm yếu, khỏi phải ra mặt trận mà được làm kỹ sư giám đốc một nhà máy điện lớn chuyên phát điện cho những xưởng chế tạo tàu chiến và binh khí.

Trong thời gian đó, chàng vẫn có chứng chân lúc nào cũng lạnh buốt, phải lấy một loại giấy bản để bao cho ấm . Chiến tranh kết liễu, chàng tự thấy không đủ sức khỏe theo nghề kỹ sư điện, muốn xoay qua thương mại và nảy ra ư chế tạo những chiếc vớ bằng giấy đem bán ở các tiệm bào chế. Kiểu vớ Baird, mùa hè th́ mát mà mùa đông th́ ấm, bán khá chạy. Chàng bèn hăng hái tung ra bán thị trường một món hàng nữa, thứ kem đánh giày hiệu Osmo. Vừa ho, vừa xổ mũi, hắt hơi, chân lúc nào cũng đi vớ và giầy cao ống, John suốt ngày phải chỉ huy thợ thuyền, giao thiệp với khách hàng, sau chịu không nổi, hóa đau . Lúc đó chàng mới thấy buôn bán c̣n mệt gấp mười làm công chức, đành nhường cửa hàng cho người khác rồi t́m một nơi ấm áp, quanh năm có ánh nắng để nghỉ ngơi. Biết t́m nơi nào bây giờ ? Ở trên đất Anh th́ có chỗ nào mà không lạnh lẽo và đầy sương mù trong tám chín tháng mỗi năm ?

Th́ may một người bạn tên là Harris, qua Trinidal ở quần đảo Antilles mưu sinh, gởi về cho chàng một cuốn sách nhỏ ca tụng phong cảnh và khí hậu thần tiên ở đảo. Đọc xong, chàng mua giấy tàu đi Trinidad liền và không quên mang theo một cái rương lớn chứa đầy những hàng lặt vặt , rẻ tiền để bán cho thổ dân, không ngờ những hóa vật đó đầy rẫy trên đảo và đă có cả trăm nhà buôn khác đi trước ḿnh, kinh nghiệm gấp mấy ḿnh rồi.

Thành thử tới Trindad, Baird phải bán tháo cho hết chỗ hàng đó rồi bỏ nghề buôn, hùn vốn với bạn mở một công ty chế tạo mứt ở thung lũng Santa Cruz.

Hai anh em ở đó như bị đày. Chung quanh toàn là thổ dân, không có một người da trắng nào khác. Xưởng chỉ là một cái cḥi bằng tre, dụng cụ chỉ có mấy cái thùng. Trời nắng như thiêu, họ xoay trần để nấu mứt. Rồi v́ thiếu kinh nghiệm, họ nấu ra sao mà mứt cho vô hộp được ít lâu, lên mốc hết, chua như dấm. Tới cái nước đó th́ chỉ c̣n cách đổ hết cả xuống sông rồi cuốn gói về Trinidad thôi.

Về tới nơi th́ Baird mắc chứng sốt rét. Bác sĩ coi mạch xong, bảo chàng phải rời ngay cái xứ "khí hậu thần tiên" đó đi mà về Anh trị bệnh. Và chàng xuống tàu, mang theo vài lọ mứt làm kỹ niệm của đảo.

Thế là năm ba mươi bốn tuổi, nhà kỹ sư điện Baird lang thang ở Luân Đôn, vô nghề nghiệp, mà sức th́ muốn kiệt v́ bệnh tật.

Chán nản quá, không biết làm ǵ, ông đăng bậy ít hàng trên tờ nhật báo Times: "Đàn ông có óc kinh doanh, có vốn, muốn kiếm người hùng làm ăn". Nhiều người tới xin hợp tác, nhưng hầu hết là những kẻ muốn lừa bịp hoặc nửa điên nửa khùng. Nực cười nhất là một anh chàng nọ tự xưng là "Vua xe bù ệt", tới đề nghị với Baird bỏ ra một ngàn Anh kim để cùng với y đống thùng cây.

Nhưng nhờ rao đó mà Baird bắt đầu có việc làm.Ông bán được hai tấn mật ông ở Úc chở tới, rồi bán vỏ dừa dùng làm phân, sau xoay qua bán xà bông nhập cảng từ Pháp. Hồi đó nhằm lúc kinh tế khủng hoảng sau chiến tranh, làm ăn không khá, mà ông lại đau nặng, phải nghe lời bác sĩ, ngưng buôn bán, rời Luân Đôn, đi dưỡng bệnh ở miền bể.

Ông lựa Hastings, một nơi phong cảnh đẹp mà đời sống rẻ, ngày ngày ăn xong rồi bách bộ ở biển, tính toán cả chục chuyện: chế tạo dao cạo bằng thủy tinh, nhưng dao không đứt râu mà lại cắt một vết lớn trên mặt ông; rồi chế tạo vớ cao su bơm hơi, nhưng mới xỏ chân vô đi thử vài bước th́ bể, ông phải vội vàng vô một cầu tiêu công cộng để thay rồi liện đi. Ông c̣n muốn chế tạo một máy vô tuyến truyền h́nh nữa. Thời ấy máy phát thanh mưới xuất hiện. Ông tự nghĩ :"Truyền được thanh âm th́ tại sao lại không truyền được h́nh ảnh ? Cứ thử t́m ṭi xem sao".

Ông do dự, viết thư hỏi ư kiến một bà chị xem nên làm dao cạo bằng thuỷ tinh hay nên kiếm cách truyền h́nh bằng vô tuyến điện.

Bà chị đáp:

"Nên làm dao cạo hơn, tất nhiên rồi ".
Và tất nhiên là Baird lựa truyền h́nh.

Đă trên mười năm buôn bán vặt để mưu sinh, ông c̣n nhớ ǵ sách vở về điện đâu . Trong lúc đó, các nhà phát minh mọi nước, có dủ pḥng thí nghiệm, ganh đua nhau t́m cách truyền h́nh mà đều thất bại. Vậy mà Baird dám xông vào khu vực đó th́ cũng hùng tâm thật. Chẳng như vậy, ông c̣n tin chắc là ḿnh thành công nữa. Và ông thành công thật, có lạ lùng không chứ ?

Hiện nay căn nhà số 8 ở đường Queen's Arcade tại Hastingd c̣n mang một tấm biển có những hàng chữ :

Sau những thí nghiệm

ở trong căn nhà này,

John Logie Baird

đă phát minh ra máy vô tuyến truyền h́nh.

Sở dĩ ông thành công là nhờ ông may mắn đă lựa đúng đường lối phải đi, đă t́m ngay được nguyên tắc là phải chia h́nh ra thành hàng ức hàng triệu chấm nhỏ sáng nhiều hoặc ít, rồi truyền đi thành những xung động điện.

Dụng cụ thí nghiệm của ông toàn là đồ lạc xoong: một động cơ chạy bằng điện lượm được trong đám sắt vụn ở một tịm bán đồ điện, một cái chậu rửa mặt, một thùng gỗ thông, một miếng giấy bồi cắt thành h́nh tṛn và đục vô số lỗ nhỏ để chia h́nh muốn truyền đi xa thành nhiều chấm sáng, một cây đèn dọi cổ lỗ đặt trong một hộp bích quy có gắn những tấm kiếng ba xu nhặt đâu được trong một tiệm xe máy. Lại thêm những bộ phận lặt vặt của một máy vô tuyến điện mà quân đội đă thải ra, vài cây kim để may, vài cái đèn pin đèn để bỏ túi, và những khúc cây lụn cụn. Rồi ông lấy hồ, lấy khằn, dây gai, dây điện dán vào nhau, chằng chịt, lung tung, thật là rối như mớ ḅng bong.

Ông thí nghiệm liên tiếp mấy tháng, kiên nhẫn thay cái này, sửa cái kia : rút cục tới mùa xuân năm 1924 ông truyền được h́nh một thập ác cách xa ba thước. H́nh c̣n mờ mờ, chập chờn, nhưng cũng nhận rơ ra là một thập ác chứ không phải là một con mèo hay một quả bóng. Nguyên tắc đă đúng, ông càng tin chắc là thành công, càng ham hở tiếng tới .

Ít lâu sau, tên tuổi ông được dăng ở trang đầu các báo chí Luân Đông . Nhưng xin bạn hăy khoan , đừng quá vội mừng giùm ông. Đó mới chỉ là tin một tai nạn, với cái tít lớn : Một nhà phát minh bị điện giật, nằm bất tỉnh trên sàn. Muốn có một luồn điện mạnh 2000 volt, ông phải nối với nhau hàng trăm cái pin đèn và trong lúc vô ư, đụng nhằm dây điện, ông lăn dùng trên sàn, chân tay co quắp lại, suưt chết .

Nhưng rủi mà hóa ra may. Sau khi tờ Daily Ketch loan tin đó ra đầu tiên, các kư giả ùn ùn tới nhà ông phỏng vấn. Ông đương túng tiền, không biết làm sao tiếp tục thí nghiệm được bèn lợi dụng ngay cơ hội đó, nhờ họ quảng cáo không công cho ḿnh. Quả nhiên sau vụ ấy, Chủ một hăng bán vô tuyến điện ở Luân Đôn đọc bài tường thuật xong, chạy lại kiếm ông , xin tặng ông một số tiền lớn để được hùn một nửa cổ phần với ông trong sự khai thác truyền h́nh. Thế là con diều đương đảo đảo muốn cắm xuống đất, lại cất cánh bay vút lên không. Ông chấp thuận liền, nghĩ đă tới lúc cần cho thiên hạ biết mặt biết tên, bèn dọn hết cả "pḥng thí nghiệm" ở Hastings về Luân Đôn.

Và cơ hội để cho thiên hạ biết tên đă tới y như sở nguyện của ông. Năm 1925, một hôm, một nhà buôn lớn ở Luân Đôn, lại đề nghị với ông : bằng ḷng trả ông 25 Anh kim mỗi tuần và chịu hết các phí tổn để bày kiểu máy của ông trong gian hàng đồ điện, miễn là ông chịu ra mắt quần chúng mỗi ngày ba lần.

Baird lúc đó đă cạn túi, nhận lời, mặc dầu biết rằng máy của ḿnh chưa hoàn hảo, không nên bày ra cho công chúng coi vội . Thương gia nọ bèn cho in ngay quảng cáo, đại ư như vậy :

" Máy chúng tôi triển lăm ở đây là máy đầu tiên trong loại của nó ; nó dùng để truyền h́nh nhưng khác hẳn các máy chụp h́nh, cũng như máy điện thoại khác hẳn máy điện tín ".

... Máy đó c̣n thô sơ lắm, v́ nhà phát minh c̣n thiếu vốn, mà vốn giữ một địa vị quan trọng nhất trong việc thực hành. H́nh ảnh được truyền tức th́, nhưng nó c̣n chập chờn, mờ mờ, và tới ngày nay, người ta ta chỉ truyền được những h́nh rất dơn sơ thôi. Nhưng xin chư vỉ nhớ truyện phát minh máy hát của Edison : hồi mới đầu, câu hát " Mary có một con trừu nhỏ " cũng có rơ ràng ǵ đâu, chỉ những người đă nghe quen rồi mới hiểu được , nhưng chính nhờ kết quả đó ta mới có máy hát ngày nay. Vậy máy chúng tôi triển lăm hôm nay chắc chắn sẽ cải thiện được, điều đó không c̣n ngờ ǵ nữa. Từ trước tới nay, máy đó chưa đem bày cho công chúng coi . Ông John Logie Baird, người độc nhất đă phát minh ra nó và giữ bằng sáng chế, mỗi ngày sẽ tới gian hàng bán đồ điện của chúng tôi, buổi sáng hồi 11 giờ rưỡi, buổi chiều vào lúc 2 giờ ruỡi và 4 giờ 15. Ai muốn hỏi han điều ǵ, ông sẽ vui ḷng giảng giải.

"Chúng tôi xin nói thêm rằng phát minh lạ lùng đó không đem cho chúng tôi lợi vật chất nào cả ; Chúng tôi sở dĩ đem triển lăm chỉ v́ biết rằng các vị khách hàng thân mến của chúng tôi muốn hiểu một phát minh quan trọng nhất của thế kỷ".


Máy thu h́nh của BAIRD

Nhà buôn đó quả có tài quảng cáo. Công chúng xô nhau vào coi gian hàng. Baird ngài ngại v́ máy chưa hoàn thành. Ông tốn công giảng giải mà chẳng ai hiểu ǵ cả. Người ta nh́n vào máy chỉ thấy bóng lu lờ ; có kẻ chế giễu ông nữa, cho đó chỉ là một mánh khóe bịp đời. Nhưng cũng có người lo sợ sau này máy đó mà hoàn hảo, bán khắp chợ, th́ người có máy sẽ nh́n qua được những bức tường, biết rơ đời tư của hàng xóm mất . Một bà già sau khi nh́n máy xong, kéo Baird lại một góc pḥng , hỏi nhỏ : " Này em , nếu qua kéo bức màn trong pḥng tắm của qua, th́ máy của em c̣n nh́n thấy được không ? "

Vừa mắc cỡ, vừa chán ngán, Baird xin xé giao kèo, cuốn gối về nhà, không chịu đống cái vai con khỉ trong rạp xiếc nữa. Nhưng lần này cũng như lần trước, rủi mà hoá may. Chính trong đám người tứ xứ xô nhau vào coi, có một thiếu nữ tên là Magaret Labu, theo mẹ ở Nam Phi tới Luân Đôn để học dương cầm, chú ư tới con người kỳ dị đứng sau những cái máy và những dây điện chằng chịt đó.

Nhờ số tiền kiếm trong máy tuần ấy, Baird sống được ít lâu, rồi lại túng quẫn, đến nỗi nhiều bữa phải nhịn ăn để có tiềng mua đồ thí nghiệm. Áo rách như sơ mướp, giày th́ thủng đế, đau ốm liên miên mà thiếu thuốc. Chủ phố dọa tống cổ ra đường nếu không trả đủ tiền mướn.

Khổ nỗi, công việc vẫn không tiến hành. Bạn bè cứ hỏi : "Tại sao không truyền h́nh một mặt người mà cứ truyền h́nh một thập ác, cái hộp, cái ve làm chi vậy!" Họ hiểu đâu nỗi khổ tâm của ông. Chỉ cần truyền h́nh được mật người mà không được đấy chứ ! Chỉ thấy mờ mờ nét chung quanh, c̣n mắt mũi, chổ sáng chổ tối th́ chưa được, mà thiếu những chi tiết đó th́ làm sao nhậnra được là mặt người ?



Đói quá , ông phải đi kiếm người chịu bỏ vốn ra hùn với ông, và nhờ các kư giả quảng cáo giùm cho ḿnh . Nhưng thấy kết quả tai hại trong cuộc triển lăm trước, ai nấy đều lắc đầu: "Ông cứ truyền cho tôi coi h́nh một mặt người, rồi tôi sẽ giúp ông ". Có kẻ c̣n ra lệnh cho tên gác cửa "hễ thấy thằng điên đó tới th́ đuổi nó đi " .

Người chũ hăng vô tuyến điện , trước đă bỏ vốn ra giúp ông, nay nhất định không cho ông vay mượn ǵ nữa mà c̣n đ̣i lại số vốn cũ. Không biết xoay sở cách nào nữa, Baird đăng báo cổ phần lập công ty.

Thật là khờ khạo. Đă tốn tiền cho nhà báo, áo cổ cồn, quần nỉ xọc, miện ngặm x́ gà, tay cắp cập da cồm cộm. Họ ùa vào nhà ông, như kiến bu mồi, hứa trời hứa đất để rút cục đ̣i ông đưa trước tiền nước. Ông c̣n tiền đâu mà đưa? Họ bẽn lẽn rút lui hết.

Vạn bất đắt dĩ, ông c̣n phải dùng đến phương pháp cuối cùng mà ông vẫn ngại nhất là hỏi mượn tiền anh em trong nhà. Ít hy vọng lắm v́ ông biết rằng họ cũng như phần đông các người Ê cốt (Écosse), có tánh tiêu tiền rất kỹ, không ai chịu đem những số tiền chắt bóp hằng chục năm trời tung vào những cuộc kinh doanh bấp bênh như vậy. Nhưng ông đă tới lúc bí rồi, c̣n biết tính cách nào khác nữa?

Trong khi đợi họ hồi âm, Biard phải đi cầm ít nhiều dụng cụ thí nghiệm với một giá rẻ mạt để có tiền ăn trong vài ngày. Và cứ ăn xong, là ngồi bó gối đợi tin mà nghĩ về tương lai mù mịt của ḿnh.

Không ngờ , trời lại giúp ông lần nữa. Hai người anh họ gởi cho ông mượn năm trăm Anh kim, gọi là "để giúp chú em" mà nếu thành công th́ "hưởng chung". Được tiền ông đi chuộc ngay dụng cụ rồi lập một công ty nhỏ, lấy tên là công ty "truyền h́nh" . Ông lại hăng hái tiếp tục, thí nghiệm thui thủi suốt ngày suốt tháng trong pḥng, thử cách này , cách khác, tuyệt nhiên không có người nào giúp sức, và chỉ làm bạn với con búp bê Bill cũ kỹ, lem luốc mà ông cố truyền h́nh cho bằng được. Ông chỉ mới truyền được mờ mờ vết trắng lớn, h́nh cái mặt, và ba vết đen nhỏ, h́nh cặp mắt và cái miệng. Cũng đă là tấn tới rồi đấy, nhưng chưa đủ.

Sau cùng, ngày mùng 2 tháng 10 năm 1925, ông thành công một cách bất ngờ. Ông thí nghiệm một máy mới, vừa mới cắm điện th́ tưởng như ḿnh chiêm bao :Mặt con búp bê Bill hiện rơ ràng, chỗ sáng chỗ tối, đủ chi tiết : mắt, miệng, mũi, tóc, lại cả lông mày nữa chứ !

Ông nhảy tưng tưng lên, chạy ngay đi kiếm một Bill bằng da bằng thịt. Và buổi chiều đó, nhân viên trong một hăng cho mưón phim ở tầng lầu dưới, hoảng hồn tưởng ông hoá điên: Bỗng nhiên, cái "ông phát minh ở từng lầu trên" chạy rầm rầm, đẩy cửa vào, đầu tóc bù xù, mắt long lên x̣ng xọc, túm lấy cổ một em mười lăm tuổi tên là William Taynton, làm tên sai vặt cho hăng.

Em nhỏ vùng vẫy, run run lên cầm cập, mà Baird chẳng nói năng ǵ cả, cứ lôi xềnh xệch lên lầu, bắt ngồi vào chỗ con búp bê, dưới ánh rực rỡ, chói mắt của những ngọn đèn dọi, ra lệnh : "Ngồi đó, không được nhúc nhích nghe không ?". Rồi chạy biến vào pḥng bênh.

Ông ngó vào một hộp nhỏ, đen đặt sau một tấm kiến, th́ lạ quá, không thấy h́nh ǵ cả. Ông bứt tóc, suy nghĩ :"Sao kỳ cục vậy? Hay là lúc nảy ḿnh chiêm bao ? Có lư nào ?" Ông lại chạy qua pḥng dọi . Phải rồi : William Taynton trông thấy cái máy kỳ cục và những sợi dây điện chằng chịt, sợ quá, nghiêng đầu qua một bên cho mặt ở xa cái máy "nguy hiểm", v́ vậy mà h́nh không hiện. Baird dúi năm cắc vào tay nó, năn nỉ nó ngồi yên và ngay ngắn cho. Lần này quả nhiên tấm gương thần đă thâu được h́nh một mặt người.

Taynton đ̣i nh́n vào máy. Ông bằng ḷng, ngồi dưới đèn dọi và Taynton thấy mặt ông hiện lên trên tấm gương.

Ít bửa sau, Baird mời các ông trong viện Hàn lâm khoa học Luân Đôn tới coi. Mọi việc đều được như ư, nếu không có một sự vô ư nho nhỏ này : một cụ hàn ṭ ṃ lại gần máy quá, nên cḥm râu vướng vào một cái đĩa đương quay, gỡ mấy phút mới ra, làm cụ vừa sợ vừa ngượng.

Ông tặng máy đó cho Viện khoa học South Kensington và chế tạo máy khác hoàn hảo hơn. Tức th́ danh tiếng ông vang lừng và cái bọn áp phe cặp da cộm, x́ gà gộc lại nườm nượp ra vào nhà ông, và ông suưt bị chúng bóc lột.


Giấy bảo hành cho máy của BAIRD

Baird xin bằng sáng chế, hy vọng lập một cơ quan truyền h́nh ở nước Anh. Nhưng đài phát thanh B.B.C của Anh bảo rằng muốn lập cơ quan th́ phải được đài cho phép, và phải để đài điều khiển, mà lúc đó đài chưa có ư dùng truyền h́nh. Như vậy th́ c̣n trông mong ǵ được nữa, chỉ c̣n cách đập máy hoặc bỏ nước mà đi thôi.

Nhưng quần chúng thích coi truyền h́nh, đả đảo chính sách độc đoán của B.B.C,và các ông nghệ sĩ làm dữ, buộc chín phủ phải can thiệp. Bạn lạ ǵ tính cách chậm chạp trong những cuộc can thiệp miễn cưỡng như vậy. Một bên là đài B.B.C quyềt thế nhất trong nước, một bên là một nhà phát minh nghèo. Người ta điều tra ba bốn lần, hội hộp nhau thảo luận cả chục lần, kéo dài tới bốn năm. Trong thời gian đó Biard tiếp tục cải thiện máy, năm 1928, truyền h́nh được từ Luân Đôn tới Nữu Ước, làm cả thế giới nghạc nhiên.

Trước thành công rực rỡ làm vẻ vang cho tổ Quốc đó, chính phủ không dám làm ngơ nữa, đành bắt đài B.B.C phải tổ chức những buổi truyền h́nh thử. Công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Công ty "Truyền h́nh" của Baird bắt đầu phát đạt. Nhưng ông chỉ giữ đọc quyền được có vài năm. Hàng ngàn các nhà t́m ṭi góp sức nhau trong hàng trăm pḥng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ tối tân, ganh đua nhau giải quyết vấn đề truyền h́nh hy vọng đạt được những kết quả tốt hơn của ông. Công ty có thế lực nhất, cạnh tranh với ông ráo riết nhất là Marconi ở Mỹ . Đài B.B.C đă không ủng hộ ông mà c̣n loại ông ra nữa, dùng máy và nhân viên của hăng Marconi. Thực đau xót cho ông. Mỉa mai nhất là dân chúng Mỹ hoan nghênh ông, tin cậy ông và gởi mua những máy của ông .

Nhờ vậy, công việc kinh doanh phát đạt, ông tậu được một biệt thự lớn ở gần Luân Đôn, mời bạn bè tới chơi. Trong số này, có nhiều nghệ sĩ quen cô Margaret Albu lúc đó đánh dương cầm cho đài B.B.C nhắc chuyện cũ, hồi ông triển lăm lần đầu trong một tiệm bán đồ điện ở Luân Đôn, và hai người thương nhau, ba tháng sau cưới nhau.

Năm 1936 ông lại cậm cụi nghiên cứu để t́m cách truyền h́nh màu và nổi. Tới cuối năm 1941, giữa cái thời Luân Đôn bị phi cơ Đức dội bom tàn nhẫn, ông chế tạo được một máy truyền h́nh màu. Một trái bom trúng pḥng thí nghiệm của ông, phá tan nát hết. Ông thoát chết, phải ngưng công việc trong một thời gian, nhưng vẫn lạc quan, vẫn đợi thời cơ thuận tiện mà giải quyết một vấn đề truyền h́nh nổi.

Tháng sáu năm 1946, đài B.B.C mở cửa pḥng truyền h́nh trở lại , định dùng máy của ông để truyền h́nh cuộc Diễn binh Khải hoàn. Thế là đài và ông đă làm lành với nhau . Ông rất vui vẻ, mời các bạn thân tới dự . Khách khứa đă đủ mặt. Một người thư kư ra cho hay ông xin lổi không tiếp khách được v́ ngọa bệnh. Không có ǵ nặng. Chỉ là bệnh đau cuốn phổi tái phát thôi. Ai cũng biết ông vốn có bệnh đó, nên không lo ngại ǵ cả, ngồi coi Diễn binh Khải hoàn trên máy truyền h́nh .

Sáu hôm sau, ông mất, thọ năm mươi tám tuổi. Bẩm chất yếu ớt như vậy, đời sống lao đao như vậy, làm việc cực nhọc như vậy mà sống đươc bấy nhiêu cũng là nhờ ông khéo giữ ǵn lắm. Suốt đời ông chỉ uống nước lạnh và trước khi cưới cô Margaret, không hề gần đàn bà.


H́nh qua TV của BAIRD

Bạch tuyết
France, Paris 11.2005
(Cùng một tác gỉa )

Trích từ GƯƠNG HI SINH
(của NGUYỄN HIẾN LÊ )
do nhà xuất bản văn hóa thông tin 43 L̉ ĐÚC – HÀ NỘI - VIỆT NAM


 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>