Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này

Danh nhân

 


  
Norbert WIENER

 
 

MỘT "SIÊU NHÂN" ĐĂ CHO CHÚNG TA
MỘT NĂNG LỰC VÔ BIÊN


"Tôi đă cho thế giới này một năng lực vô biên để làm điều thiện cũng như làm điều ác. Nhưng thế giới này là thế giới của Hiroshima " . Đó là lời của ông Nobert Wiener, trong cuốn Cybernétique. Chính ông là người sáng lập ra môn học mới mà ông đặt tên là Cybernétique (kiếm động học) (1)"Môn này nghiên cứu và kiểm soát những vận chuyển tự động" . Lời ông nói đó có vẻ như một lời tự phụ, sự thực nó chỉ là một lời nhận xét và phán đoán nghiêm khắc.

Đời của ông thật kỳ dị. Nổi tiếng là thần đồng, mười một tuổi vào trường Đại học, mười bốn tuổi đậu cử nhân, mười tám tuổi làm giáo sư ở Đại học đường Harvard-một trong những trường Đại học danh tiếng nhất thế giới. Người ta thường nói loài người đương biến thành một giống sinh vật thông minh hơn, một giống "siêu nhân" Nếu lời đó đúng th́ ông có lẽ là một trong những "ca" biến chuyển đầu tiên đó.

Ông là một nhà toán có kỳ tài sự nghiệp của ông về môn toán đủ cho ông nổi danh: ông lại c̣n là một triết gia và một công dân can đảm nữa . Từ ba mươi ba năm nay (1) Ông Hans Hartmann viết bài này trước năm 1956. ông làm giáo sư toán ở Viện Công Nghệ Massachussets.

Viết tiểu sử của ông là một việc dễ mà rất khó . Dễ v́ chính ông chép lại quăng đời quan trọng nhất của ông trong cuốn: Ex-prodigy, my childhood and youth (2) Simon and Schuster-New York-1953. (Cựu thần đồng, tuổi thơ và tuổi xanh của tôi).Khó v́ cá nhân cùng công việc của ông đều gây nhiều cuộc tranh luận sôi nổi đến nay vẫn chưa dứt.


Norbert Wiener sanh năm 1894. Phụ thân ông, chuyên môn về các ngôn ngữ tư lạp phu (Slave) , là một nhân vật kỳ dị, gốc Do Thái, qua Huê Kỳ lập nghiệp ở cuối thế kỷ 19, làm hội trưởng hội người Gael (giống người Ái Nhĩ Lan hồi xưa ) ở Kansas City.

Mẫu thân ông gốc Đức qua Huê Kỳ lập nghiệp ở Missouri.

Ông là con đầu ḷng, thông minh lạ lùng, hồi bảy tuổi đă được các nhà chuyên môn về giáo dục biết tiếng . Các tạp chí giáo dục thường nói đến "em bé thần đồng" đó và ông bà Wiener để cho con đọc những bài đó.

Đầu thế kỷ 20 , gia đ́nh Wiener lại Cambridge (Massachussets) làm ăn.
Nobert ham mê học khoa học và triết lư. Phụ thân dẫn ông, và ông học tấn tới lạ thường, mới bảy tuổi đă tập sửa một bản thảo.

Năm 1903, ông chín tuổi, vào trường trung học Ayer với tư cách là "Sinh viên đặc biệt". Ông theo nổi không thua kém những bạn học hơn ông từ bốn đến sáu tuổi. Ở trường, ông cũng khôn phá phách ǵ lắm trừ một lần. Lần đó ông mười một tuổi, tổ chức một nhốm cách mạng tính lật đổ ban giáo sư để chiếm trường !

Năm 1906 ông vô học Đại học đường ở Tufts. Ông làm những thí nghiệm vật lí, chế tạo được vài kiểu máy về điện.

Lúc đó tinh thần xă hội của ông đă xuất hiện rơ rệt. Ông nhận thấy rằng môn toán học thuần túy có thể làm thay đổi thế giới và tạo cho con người những năng lực phi thường. Nghỉ hè ông qua chơi bên Đức, rồi ở Đức hai năm, trước tại Munich , sau tại Gottingen .

Ông theo học giáo sư Davih Hilbert.

Kế tới đại chiến 1914-1918, ông rời Đức, qua Anh ở Luân Đôn ít lâu, đâm chán, năm 1915 trở về Huê Kỳ.
Đă tới lúc phải kiếm nghề để sống. Ông vô học một lớp sĩ quan bỏ dở, ra viết giúp bộ Bách Khoa Huê kỳ, viết báo về chính trị, rồi lại trở vô học lớp sĩ quan. Hết chiến tranh, ông được giải ngũ.

Ḍ dẫm mấy năm, bấy giờ ông mới kiếm được lối đi: sẽ chuyên toán học, vô ban nghiên cứu ở Viện công nghệ Massachussets, một viện có danh tiếng. Hiện nay ông c̣n ở trong viện đó.

Viện là một trường Đại học kỳ dị. Bạn thử tưởng tượng một trường Bách Khoa tối tân, tối tân đến nỗi có lớp dạy môn khoa học dự tưởng (Sciences – Fiction)(1) Chúng tôi không chắc rằng dịch đă đúng, v́ không biết môn đó dạy cái ǵ. Về môn vật lư toán(2) Môn này dùng toán học để nghiên cứu về vật lư chứ không thí nghiệm. Và môn vật lư thực nghiệm(3) Dùng thí nghiệm để nghiên cứu vật lư. Trường là một trung tâm lớn bực nhất thế giới. Năm 1920 ông Wiener tuyên bố những phát minh đầu tiên của ông về môn toán ở trường đó.

Năm 1926 ông cưới cô Margaret Wegemann, gốc Đức, từ năm đó đến đầu thế chiến thứ nh́ (1940) ông tiếp tục nghiên cứu về toán học tuần tuư.

Sự hiểu biết của ông đă rộng mà lại sâu. Ông nói rất thạo sáu sinh nghữ, biết tất cả các môn khoa học và nhiều môn kỹ thuật. Nḥ sự hiểu biết lạ lùng đó mà ông sáng tạo một môn kiểm động học.

Khoa học có mục đích là tiên tri, mà môn thiên văn có thể đoán rất đúng những nhật thực chỉ sai vài giây thôi. Tuy nhiên không phải là hiện tượng nào cũng có thể tiên tri được. Ông nghiên cứu v́ tinh thần ṭ ṃ của một nhà khoa học; không ngờ khi đại chiến thứ nh́ bùng nổ th́ công tŕnh nghiên cứu của ông có một giá trị thực tế đặc biệt. Năm 1940, Pháp bị phi cơ và thiết giáp Đức đánh tan tành; Anh lo lắng sẽ tới phiên ḿnh. Cho nên phía đồng minh phải nghĩ ngay đến việc chống phi cơ. Tất nhiên là phải bắn bằng đại bác. Như khi nhắm để bắn th́ người ta không nhắm vào cái chỗ hiện thời phi cơ đương ở, mà nhắm vào cái chỗ hiện thời phi cơ sẽ tới khi đạn nổ.Vậy phải đoán trước sự chuyển động của phi cơ. Mà đoán cách nào được bây giờ ?làm sao biết được phi công địch sẽ lái qua bên này hay bên kia, sẽ bay lên hay bay xuống để tránh đạn ? Công việc cực kỳ khó khăn, vậy mà ông Wiener bắt tay vô.

Năm 1942, ông thảo một bản thuyết tŕnh về căn bản toán học của một kiểu máy có thể cho ta biết trước sự chuyển động của một phi cơ. Bản thuyết tŕnh đó nhan đề là Hoàng họa, v́ b́ nó màu vàng. Nó khó hiểu đến nỗi cả những kỹ sư cực tài giỏi cũng phải gắng sức ṃ lâu mới ra. Nhờ công tŕnh đó mà người ta chế tạo được kiểu máy gọi là “máy tiên tri“, thắng được sự ồ ạt của Đức ở Ardennes, diệt được những phi cơ tự tử của Nhật, tức những phi cơ lớn của đồng minh,(1)chính sách đối lấy quân xe trong môn cớ tướng. diệt được tất cả những bom V1 mà Đức bắn qua Luân Đôn.

Chế tạo xong rồi, ông Wiener ngạc nhiên thấy rằng máy đó giống thần kinh của loài người quá.


Hiroshima

Năm 1945, bom nguyên tử nổ ở Hiroshima. Tinh thần luân lư của ông xuất động mạnh, ông từ chối không chịu nghiên cứu cho quân đội nữa. Người ta kể rằng có lần ông tuyên bố với các nhà quân sự như vậy: “Nếu một em nhỏ tám tuổi chẳng hạng, bảo rằng ở trường có những đứa lớn hơn đánh đập nó th́ tôi đưa cho nó một đôi bao tay để đấu quyền và tôi dạy cho nó một môn đấu quyền, chứ không đưa cho nó một con dao cạo. Các ông có nhiều trách nhiệm hơn một em nhỏ tám tuổi, vậy các ông đừng lại xin tôi giao cho các ông một con dao cạo để rồi các ông có thể cứa họng những bạn nhỏ bé của các ông”. Không rơ có thực ông tuyên bố như vậy không, nhưng không thấy ông đinh chính.

Nói xong lời đó, ông đi nghỉ mát ở Mễ Tây Cơ. Tại Mễ tây cơ ông gặp vài nhà bác học nghiên cứu bộ thần kinh, như ông Laurent De No , ông Arthur Rosenblutt... Ông bàn căi với họ và thấy rằng bộ thần kinh với máy bắn (tức máy tiên tri) của ông có điểm này giống nhau là cả hai đều biết dùng những lổi lầm đă qua để tự sửa lại lối hành động. Điều lạ lùng hơn nữa là máy của ông khi vướng một hạt bụi chẳng hạn mà chạy bậy, th́ lúc đó “thái độ” của nó y như thái độ một người đau; một người đau chừng tê liệt, run rẩy đưa tay ra rán nâng ly thuốc, th́ thái độ cũng y như cái máy của ông lúc chạy bậy. Giống nhau như hệt, cả về lượng lẫn phẩm. Ông và các cộng sự của ông có thể tính được đúng thời gian run tay của một con bệnh se kéo dài bao lâu. Do đó, ông nảy ra ư này là sự nghiên cứu hệ thống điện thoại và sự nghiên cứu những máy tự động có thể họp chung lại thành một môn mới.

Và ông đặt cho môn học mới có cái tên là Cybernétique, không ngờ rằng nhà bác học Ampère đă dùng tên đó trước ông. Tiếng Cybernétique, do một tiếng Hy lạp có nghĩa là bánh lái.

Ông bèn gom góp hết ư kiến về vấn đề đó. Nhưng nếu không có sự giúp đỡ của ông Enrique Freymann th́ chưa chắc ǵ một tác phẩm độc đáo như vậy đă ra đời được.

Ông Enrique Freymann (mới mất đây) làm giám đốc nhà xuất bản Hermann, đường Sorbonne ở Ba Lê, Nhà Hermann xuất bản lấy tên là Tin tức khoa học và kỹ nghệ (Actualités Scientifiques et industrielles). Các nhà bác học danh tiếng nhất thế giới đều viết cho loại sách đó. Ông Freymann ở Ba Lê nhưng quốc tịch Mễ Tây Cơ và khi Đức đă chiếm Pháp, ty Công An Gestapo của Đức muốn đem đày ông th́ chính phủ Mễ Tây Cơ cương quyết can thiệp, làm cho tất cả các nhà bác học thế giới đều mang ơn.

Năm 1947, Wiener lại thăm Freymann (các nhà bác học ngoại quốc nào hễ tới Ba Lên cũng tiếp xúx với Freymann) kể những công việc nghiên cứu t́m toài của ḿnh ở Mễ Tây Cơ ; Freymann nghe xong, bảo:”Phải xuất bản đi “. Thế là môn kiểm động học ra đời.

Năm 1948 sách in xong. Dưới nhan đề Cybernétique, có phụ đề này:”Những phương tiện kiểm soát và truyền đạt của loài vật và của máy móc”.

Sách rất khó hiểu, nhưng phong phú lạ lùng, làm cho tác giả nổi danh liền.

Trước khi có môn kiểm động học th́ người ta cho rằng tư tưởng , thứ nhất là vài trạng thái của tư tưởng như sự lư luận, khả năng tiên tri, sự lựa chọn những kư ức là những hoạc động chỉ có bộ óc con người mới làm được. Môn kiểm động học đă cho ta thấy rằng máy móc cũng có thể làm được những việc đó. Và lần lần người ta tin ở những con người máy (robot), những bộ óc điện, những bộ máy tư tưởng.

Tin như vậy cũng hơi quá.Tất nhiên là máy không thể suy nghĩ được. Tôi xin lấy một thí dụ giản dị: khi luồng điện mạnh quá th́ dây ch́ chảy ra mà chúng ta tránh được một hỏa hoạn. Ta nói là cầu ch́ nổ. Không ai nghĩ rằng cầu ch́ thông minh. Một bộ óc phức tạp hơn nhiều, cho nên người ta tưởng nó có những tính cách bí mật; nhưng sự thực nó cũng chỉ gồm nhiều cầu ch́ mà luồng điện qua được hay không qua được. Khi luồn điện qua, người ta cho hiện lên một con số nào đó (chẳng hạng con số không); khi luồn điện khong qua, người ta cho hiện lên con số khác(chẳng hạn số một); theo phương pháp đó người ta có thể cho máy làm những bài tín rất rắc rối. Chỉ khác một điều là máy toán không dùng những cầu ch́ thường, cứ cháy rồi lại phải thay; mà dùng những đèn điện như loại đèn của các máy vô tuyến điện, hoặc những bộ phận tinh tế hơn nữa gọi là transistor.

Dùng những máy toán cực kỳ rắc rối, gồm cả triệu bộ phận như vậy, người ta có thể làm xong trong vài giây những bài toán khó khăn đến nỗi , dùng cây viết mà tính th́ phải cả một đời người mới xong. Máy tính nhanh hơn cả tốc độ của một viên đạn, nghỉa là bắn phát đạn ra khi viên đạn chưa tới đích th́ máy đă cho ta biết được nó sẽ đi qua chỗ nào và nổ trúng đâu. Máy c̣n có thể thay người để lái phi cơ, điều khiểng một xưởng.

Loài người được năng lực kỳ diệu đó là nhờ công tŕnh của Wiener và những cộng tác với ông. Tuy vậy, muốn cho công bằng, chúng ta cũng không nên quên ơn một người Pháp tên là François Dussant, người đầu tiên xây dựng một lư thuyết tổng quát cho tất cả các loại máy đó.

Vậy máy có thể thay bộ óc của người mà làm được nhiều công việc mau hơn người, nhưng không thể nào thông minh như óc của loài người được.

Ông Wiener đă nhận xét rất đúng rằng những máy giúp chúng ta làm điều thiện mà cũng có thể tăng năng lực của chúng ta để làm điều ác.

Nhờ môn kiểm động người ta có thể chế tạo những người máy lái phi cơ để oanh tạc một châu thành. Nhưng cũng nhờ khoa đó , người ta chế tạo được một máy đánh thuốc mê nằm ở dưỡng đường Mayo (Hoa Kỳ) . Máy này rất kỳ dị, dùng những sóng điện trong óc bệnh nhân mà tự động khoá ṿi hơi thuốc mê lại một khi bệnh nhân bắt đầu mê man. Người ta có thể chế được những chân tay nhân tạo mà người cụt chân, cụt tay đeo vào, có thể điều khiển y như điều khiển những chân tay bằng da thịt vậy. Lại có những máy đọc sách cho người đui dùng và vô số “phép mầu “ khác nữa.

Như vậy loài người có thêm được những bộ óc tự chủ, không biết mệt, không cần ngủ. Ta thử tưởng tượng, có một năng lực kỳ diệu như vậy, chúng ta có thể thay đổi đời sống của chúng ta và biến đổi được cả vũ trụ đến cái mức nào !

Tuy nhiên máy không thể hoàn toàn thay thế được con người, không gây ra sự thất nghiệp, v́ máy không khi nào có được cái óc tế nhị, máy lại không lập được chương tŕnh. Các tập chí chuyên môn Huê Kỳ thường ra những tin cần dùng người chuyên môn về máy tính. Chỉ có hạng suốt đời cộng cộng, chia chia, không làm được cái ǵ khác là sẽ lâm nguy: máy sẽ đào thái họ, v́ máy có một sức nhớ vô biên (có thể nhớ được hàng tháng những con số rắc rối) và một sức kiên nhẫn cũng vô biên : 50 triệu bài toán nó cũng coi thường !

Nhưng dù sao nó vẫn chỉ là cái máy, không thông minh, bao giờ cũng phải cần người. Cho nên môn kiểm động học không làm cho ta sợ mà trái lại làm cho ta hy vọng. Môn đó có thể giúp ta t́m được nguyên nhân bệnh điên và phương pháp trị bệnh đó.

Nhiều nhà thần kinh bệnh học đă nghiên cứu “trường hợp “Wiener, để rán t́m xem bộ óc kỳ dị đó làm việc ra sao . Họ không thấy cái ǵ khác bộ óc của người thường. Ông đánh bài “brige“ th́ cao vô cùng, nhưng tính t́nh hoà nhă, không xấu chơi. Lại có tinh thần trào phúng. Một lần trong một cuộc hội nghị các nhà bác học ở Ba Lê, ai cũng tưởng ông tuyên bố khoa học th́ ông lại nói suốt hai giờ về bản chất của loài quỷ ! Người ta lo ngại rằng khi cái giống “siêu nhân“ xuất hiện th́ họ sẽ làm những tṛ ghê gớm ǵ và đưa nhân loại vào con đường nguy hiểm nào đây . Nếu tất cả các siêu nhân đều như ông Norbert Wiener th́ chúng ta chỉ cầu cho nhân loại mau có được rất nhiều siêu nhân, càng nhiều càng tốt.

Bạch tuyết
France, Paris 12.2005
(Cùng một tác gỉa )

Trích từ GƯƠNG HI SINH
(của NGUYỄN HIẾN LÊ )
do nhà xuất bản văn hóa thông tin 43 L̉ ĐÚC – HÀ NỘI - VIỆT NAM


 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>