Mail Contact Home

Gửi cho bạn bè trang báo này

Truyện Trạng Lợn

 

CẦM ĐẦU SỨ BỘ SANG TÀU

 
 

Khi các động đă thần phục, biên giới đă yên, nhà vua sai sứ sang Tàu đề cùng cố sự giao hảo.

Lần này, vua cử Trạng làm chánh sứ để tạ ơn vua Tàu đă phong vương cho ḿnh. Trạng nghĩ bụng: "Nước Tàu là nước Văn hiến, mà ḿnh th́ chữ ngĩa không nhiều, không hay. Âu là ta xin cho cả Trạng Ăn, Trạng Vật, Trạng Cờ cùng đi để hỗ trợ.

Vua chuẩn y, cắt ba Trạng cùng đi theo. Tới ải Nam Quan, lính canh Tàu không chịu mở cửa. Một chốc, họ đem ra một cái biển trên viết chữ "thập", rồi lấy tay chỉ đông, chỉ tây. Trạng bực ḿnh, quay lại bảo viên phó sứ:

- Nó muốn dọc, muốn ngang, th́ ta khoanh một cái ṿng tṛn cho nó hết đường dọc ngang.

Nói xong, Trạng sai khoanh một ṿng tṛng lớn vào biển rồi giơ ra. Quan coi ải giật ḿnh, nghĩ bụng : "Ta viết chữ "thập" là ư muốn nói "Tung hoành vũ trụ", thế mà sứ An Nam biết, đối lại là "Bao quát càn khôn" th́ tài thật. Viên quan đó đành ra lệnh cho mở cửa ải, để sứ bộ nước ta vào.

Qua cửa ải rồi, sang đến đường đất nước người, Trạng thấy phong cảnh lạ, trong ḷng lấy làm thích thú.

Chợt đi đến quăng đồng, thấy có một người con gái đang vạch quần đái, Trạng chỉ tay nói đùa với phó sứ rằng :

Ḱa quan lớn xem :"Nong tay dí bẹn đỏ hăm hăm". Nói xong cùng cười ầm cả lên. Lệ di sứ, hễ ông chánh nói câu ǵ, thời ông phó phải ghi câu ấy, Trạng nói nôm, ông phó theo tiếng mà ghi, bằng chữ Hán, đọc chệch ra là : "Đông Tây chí Biện đổ hân hân", nghĩa là Người miền Đông, người miền Tây đi đến Biện thấy (quang cảnh) rất vui vẻ.(đất Biện tức Biện Kinh, kinh đô Trung Hoa thời nhà Tống).

Khi đi qua đến đất Biện Kinh, quan sở tại nghe thấy sứ đến, ra nghênh tiếp, có ư muốn lấy chữ nghĩa ra thử sứ, bèn ra một câu đối rằng: "Nam Bắc lai triều dạ tể tể" nghĩa là : Người phương Nam người phương Bắc đến triều rất rầm rộ.

Vừa đọc khỏi miệng, Trạng ngoảnh lại bảo ông phó sứ rằng: "Ḱa, cái câu hôm nọ đâu, ngài đem ra đối đi ". Ông phó sứ cứ sẳn thế đưa ra, thời quả nhiên thực là một câu đối khá chỉnh. Quan Tàu thấy thế, phục sứ An Nam thần thông, có tài hiểu biết rộng, trong bụng kính phục lắm, khoản đăi rất trọng hậu.

Sang đến Yên Kinh, vào yết kiến vua Tàu. Vua Tàu muốn thử sứ, ngầm sai một người trang hoàng một chỗ trong cung quán rất lịch sự, đề hai chữ "kính thiên" treo gian giữa, đặt một đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh bày nghi vệ sang trọng lắm, như là một chỗ giường ngự của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi hay không. Khi sắp đăi yến, họ đưa Trạng và phó sứ đi xem khắp các nơi rồi mới đưa đến đấy. Trạng tưởng chỗ ấy để khoản đăi ḿnh, leo phắt lên ngồi. Ông phó sứ ngửa lên thấy hai chữ "kính thiên" liếc mắt trông lên, khẽ trỏ tay lên bảo, Trạng mới ngửa lên nh́n, rồi lại thủng thỉnh bảo phó sứ rằng :

- Đó chẳng phải là chỗ đợi chúng ta ngồi là ǵ ?
Ngài cứ lên đây !

Ông phó sứ chưa hiểu thế nào, cũng cứ lên ngồi, nhưng vẫn có ư nhút nhát, mà Trạng cứ nói cười thung dung. Có một quan Tàu bước ra, chỉ tay lên đấy, hạch rằng:

- Cớ sao sứ An Nam lại ngạo ngược vô lễ như vậy ? Không trông lên các chữ trên kia để xem chỗ này là chỗ nào, mà dám nhăy lên ngồi chễm chệ ở đây là nghĩa làm sao ?

Trạng nói :

- Thưa, đại thần lấy tội ǵ mà lại cho hạ quan là ngạo. Hạ quan nhân thấy biển đề rơ là ba chữ "kính nhị nhân"(1) Thực là bản ư thượng quốc muốn đem cái ngôi này để hậu đăi sứ thần xa lại, chứ không phải lỗi tiểu sứ. Và nghe cổ nhân có nói: Đăi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh triều lấy thành tín đăi người ngoại quốc. Thế mà người phương xa tới, lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có thực ḷng ngưỡng mộ, cũng sinh bụng nghi mà không lại nữa.

Quan Tàu thấy Trạng nói chẻ hoe như là đă biết gan ruột họ rồi, vội vàng đáp lại rằng :

- Thôi xin quư sứ xá lỗi , xá lỗi ! Nghĩ là buổi mới, thử xem có phải là bậc tài giỏi không mà thôi. Nhưng mà quư sứ là bậc thông minh thực ! Đă giỏi, mà c̣n biết trước được như thế, th́ có hề ǵ.

Một lát sau có người bưng hai cỗ xôi, hai con lợn ra đặt ở giường chánh sứ và ở giường phó sư, rồi truyền chỉ thiên triều ban yến. Hai người đều mặc triều phục, bái mạng xong, ngồi lên ăn. Nguyên con lợn là một cỗ toàn đồ ăn, c̣n cỗ xôi, đều là lấy bột đắp giả làm h́nh, gồm những đồ trân cam, mỹ vị ở trong. Trang tưởng là con lợn với cỗ xôi thực, cầm dao ra cắt ngay cái thủ trước,rồi rạch ra làm đôi, lại ra làm tư, lật ra thấy bên trong thức nào thức náy, lắm mùi vị lạ lùng. Trạng lại lấy dao cắt nhỏ rồi mới ăn. C̣n cỗ xôi, Trạng để lui lại , dùng sau.

Các quan Tàu khen sứ An Nam ăn uống như thế mới thực là phải phép. Rơ ràng là : "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng biến hóa vô cùng"!

Ông phó sứ vốn là người có tiếng ăn khỏe. Tiệc yến hôm ấy có đông mặt những quan Tàu, ông lại khoe sức ra oai ăn như vũ băo, chỉ một chóc hai cỗ hết tận, không c̣n thừa một tí nào.

Các quan Tàu thấy thế lắc đầu lè lưỡi x́ xồ bảo nhau rằng :"Bậc ấy không biết trong bụng chứa chất như thế nào ?", nên gọi là "Thực Trạng Nguyên" tức là Trạng nguyên Ăn".

Một hôm, vua Tàu hội các sứ ngoại quốc ở vườn Ngự chơi hoa, ban yến. Vua Tàu đi trước, các sứ tuỳ giá theo sau. Đến một chỗ, dưới có cái hồ thả sen, trên trồng các thứ hoa lạ, cảnh vật thanh tú, giữa có cái đ́nh, bên trong treo một bức ngự thư đề hai chữ "Trùng nhị". Vua Tàu hỏi sứ các nước có hiểu là thế nào không ? Các sứ c̣n đương nghĩ chưa biết tâu là ǵ , Trạng tự nhiên tâu rằng :

- Rộng thánh hoàng muôn tuổi, đây thực là phong nguyệt vô biên.

Vua Tàu thấy Trạng ứng đối nhanh nhẹn và hiểu được hai chữ ấy, khen măi, phán rằng :

- Sứ An Nam thực là thông minh có một, đáng tài Trạng.

Xét vua Tàu viết hai chữ " trùng nhị ", vốn lấy nghĩa là : chữ "phong" và chữ "nguyệt" không có bên ngoài thời thành ra chữ "phong nguyệt vô biên". Trạng không biết ư sâu xa như vậy, chỉ v́ đương lúc bấy giờ thấy phong cảnh mát mẻ, nhớ đến chữ "phong nguyệt vô biên" ở chùa khi trước. Chẳng qua tâu lên để tán tụng mà thôi, nào biết đâu lại trúng!

Năm sau, trời làm hạn hán to, nhân có sứ các nước cùng đến triều cống, vua Tàu nhờ các nước sứ lập đàn cầu đảo. Trạng bèn làm ra vẻ khiêm tốn nhường sứ các nước làm lễ cầu đảo trước. Sứ các nước thay nhau cầu đảo mà trời vẫn không mưa.

Trong lúc đó, Trạng lần ra vườn xem cỏ gà, rễ si, v́ theo kinh nghiệm của nhà nông ta, hễ khi nào cỏ gà lốm đốm trắng, rễ si nhú ra là trời sắp mưa. Hôm thấy cỏ gà lớm đớm trắng, rễ si nhú mầm, Trạng liền xin vua Tàu cho ḿnh vào lễ cầu đảo. Trạng bắt làm một cái cḥi cao mười tượng, quanh cḥi bày la liệt nào là ngũ phương, bát quái, lục giáp, lục đinh...trông thật oai nghiêm, bí hiểm.

Đàn lập xong, Trạng rũ tóc, chống kiếm, bước lên cḥi, bắt quyết, trồi đọc một tràng phù chú, nào là "mộc tinh","thâm tinh", mục tinh", "khươu tinh", "kẹo tinh"...nghe rất lạ tai, rặt những câu nói lái, nói lóng của hàng thịt bấy lâu cóp nhặt được, đọc ra vanh vách cho hết. Cuối cùng, phù chú đă xong mà trời chưa vần vụ chuyển gió, Trạng làm tiếp ngay một lèo "tinh tinh tinh tinh" nghe ú ớ như lời phù thuỷ hô phong hoan vũ, để chờ thời. Vừa may, gió chuyển bốn bề, trời tối sầm lại, Trạng thôi "niệm chú", tay cầm bát nước vẩy khắp bốn phương. Quả nhiên , mây đen ùn ùn kéo tới, một trận mưa như trút nước đổ xuống, sấm chớp sáng lóe.

Vua Tàu và sứ thần, các nước đều bái phục, bảo với nhau :

- Sứ An Nam quả là bậc phi thường, chẳng những giỏi về từ chương mà lại có tài hô phong hoán vũ nữa. Bao nhiêu tinh tú trên trời đều thuộc lầu lầu. Gia Cát Lượng ngày xưa cũng chỉ giỏi đến thế là cùng !

Vua Tàu thấy Trạng giỏi quá, liền lưu Trạng ở lại dạy hoàng tử. Trạng phần nhớ nhà, nhớ nước, phần sợ dạy học sẽ ḷi cái dốt ra, nên một mực xin về nước. Nhưng vua Tàu ép măi, Trạng bất đắc dĩ phải vâng mệnh ở lại. Tuy vậy, Trạng đă lập mẹo sẳn, liền tâu vua:

- Học muốn chóng thành tài th́ thứ nhất lễ phải nghiêm, thứ hai tâm phải tĩnh !

Vua Tàu cho là phải.

Trạng xin vua làm một ṭa lầu rất cao để hoàng tử học cho tĩnh. Vua bằng ḷng. Ngày khai tâm, hoàng tử leo lên lầu thụ giáo. Xưa nay vốn ở cung cấm không quen leo trèo, nên hoàng tử leo trèo lên được nữa lầu th́ đă mệt bở hơi tai, chỉ đứng thở dốc, quên cả chào thầy. Trạng liền lập uy nổi giận, quát to:

- "Tiên học lễ, nhi hậu học văn". Vô lễ như thế th́ c̣n học hành ǵ !

Rồi, cầm roi vụt cho hoàng tử một trận nên thân, Hoàng tử bị đánh đau quá, lúc được tha, lại quên cả lễ tạ thầy. Trạng liền quật cho thêm một trận nữa. Quan hầu cận đi theo hoàng tử , sợ xanh mặt, vội sụp xuống , xin tha cho hoàng tử. Lúc đó Trạng mới thôi.

Từ đó, Trạng chỉ dạy toàn những phép tắc đứng ngồi, chào thưa, xét nét từng ly từng tư. Hoàng tử sợ đ̣n, về mách với hoàng hậu . Hoàng hậu thương con, nên tâu với vua:

- Sứ An Nam xa nước đă lâu, ư chừng nhớ nhà, nhớ nước, nên tính t́nh đâm ra nóng nảy, không yên tâm dạy học. Cho bằng vua cho về quách đi là hơn. Nếu cứ giữ lại, th́ e rằng con ta sẽ ốm v́ đ̣n mất !

Hôm sau, vua phải giáng chỉ cho Trạng về nước.

_____________________________________________

1°) Chữ "Thiên" nghĩa là trời. Vua Tàu vẫn tự xưng ḿnh là thiên tử (con trời). Cái dốt , cái giỏi của Trạng Lợn là đă nhận nhầm, hay cố t́nh biện bác chữ "Thiên" thành "Nhị nhận" là hai người , hai ông chánh , phó xứ. Xem thêm cách diễn dịch trong đoạn "Trời có hai người, đất một người".

Bạch Tuyết

 
 
 


Ghi rơ nguồn "yeuvietnam.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này

<< GIAO KÈO >>